1. Tuyetmai
    Avatar của Tuyetmai


    Một trong những nghệ sĩ tiền phong của sân khấu cải lương, đã phục vụ nghệ thuật trong hơn 35 năm cũng vẫn còn vương nghiệp Tổ, đó là nghệ sĩ Bảy Nhiêu gia nhập làng cải lương từ đầu thập niên 1920 cho đến tuổi già ngoài 70 vẫn còn lưu luyến nghệ thuật, được thể hiện qua những tập hồi ký, và sau đây là tóm lược quá trình hoạt động nghệ thuật của ông:

    Nghệ sĩ Bảy Nhiêu

    Nghệ sĩ Bảy Nhiêu tên thật là Huỳnh Năng Nhiêu sanh năm 1902, quê quán tại Thốt Nốt tỉnh Long Xuyên, bước chân lên sân khấu đầu tiên vào Tháng Mười năm 1921 trong gánh Tập Ích Ban của ông Vương Có, đóng vai chàng công tử Viếc trong vở “Tình Duyên Phấn Lạc” của soạn giả Mộc Quán-Nguyễn Trọng Quyền, phóng tác theo vở “Fellah” của Pháp.

    Kế tiếp Bảy Nhiêu đóng vai Châu Bá Hòa trong tuồng “Châu Trần Phải Nghĩa”, đóng vai Lý Ðáng trong tuồng “Phụng Kiều Lý Ðáng”, và rồi thì đến tuồng “Tang Gia Giả Gái”. Năm 1925 gia nhập đoàn Phước Cương và đến năm 1931 theo đoàn sang dự cuộc đấu xảo ở Ba Lê (Pháp). Năm 1933 lập gánh Tiếng Chuông, năm 1936 cùng với Năm Châu, Ba Vân, Từ Anh, Thanh Tùng về hát cho đoàn Ðại Phước Cương.

    Một thành tích nữa khó thể quên là năm 1937 Bảy Nhiêu đi dự lễ Hiến Pháp ở Thái Lan, trình diễn vở Trà Hoa Nữ (La Dame aux Camélias) và vở cải lương Ðiên Vì Tình (lúc ấy người Xiêm không thích tuồng Tàu). Ðến năm 1940 thành lập gánh Tân Tân và năm 1941 thành lập đoàn Nam Phương, năm 1946 gia nhập đoàn Con Tằm.

    Ðến năm 1947 Bảy Nhiêu lại tái lập gánh Nam Phương, gánh hát rã sau trận bị ăn cướp tại đình Xuân Hòa đêm 17 Tháng Baỷ, 1947, ông trở về gia nhập đoàn Việt Kịch Năm Châu, và đến năm 1954 thì giải nghệ về bán cà phê tại bên cạnh đình Phú Hòa ở đường Bà Lê Chân, Tân Ðịnh.

    Cũng vì nặng nghiệp Tổ nên sau ngày giải nghệ rồi (1954) Bảy Nhiêu vẫn thỉnh thoảng xuất hiện trên sân khấu trào lộng, hài kịch xã hội của nhóm Năm Nỡ (bạn đi hát cùng thời), và đặc biệt là cộng tác với nghệ sĩ Năm Châu đóng phim, đảm nhận vai Sư Cụ trong phim Quan Âm Thị Kính, lúc Ban Việt Kịch Năm Châu hợp tác với hãng Mỹ Vân quay cuốn phim nói trên (Bảy Nhiêu là nhạc phụ của nghệ sĩ Năm Châu).

    Nhắc lại nhân ngày cải lương cúng Tổ năm vừa qua (12 Tháng Tám, Bính Tuất) chúng tôi có viết bài “Tổ Nghiệp Cải Lương Là Ai?” đăng trên Nhật Báo Người Việt. Nội dung bài viết có đề cập đến vấn đề “ăn cướp và cải lương cùng một Tổ”, ăn cướp không ăn hàng các gánh cải lương”. Mà tại sao gánh hát Nam Phương của Bảy Nhiêu lại bị ăn cướp?

    Lúc tuổi đã 70 nghệ sĩ Bảy Nhiêu được tờ nhật báo Sóng Thần đề nghị viết hồi ký đăng báo trước rồi sau đó sẽ xuất bản (có lẽ Sóng Thần thấy cuốn “50 năm mê hát” của Vương Hồng Sển). Ông nhận lời và viết theo kiểu nhớ gì viết nấy trong cuốn tập học trò 100 trang, viết đầy cuốn thì trao cho tòa soạn báo Sóng Thần và lãnh “bao thơ” đủ sống hằng ngày với cà phê cà pháo. Cứ như thế ông viết khoảng hơn chục cuốn và ký giả Ngọa Long lãnh phần sửa chính tả, câu văn cho mạch lạc để đăng báo. Sóng Thần dự định khi đăng hết sẽ xuất bản và ông sẽ được chia tiền bản quyền, nhưng báo chưa đăng hết thì bị ngưng vì lý do “hết giấy”, lúc đó khoảng giữa 1974 nhiều tờ báo cũng bị tình trạng đó chứ không riêng gì Sóng Thần.

    Ðến khi tờ báo ra trở lại thì đang thời kỳ có nhiều vấn đề quan trọng phải đăng, chẳng hạn như sự việc Linh Mục Trần Hữu Thanh phát động “Phong Trào Chống Tham Nhũng”, thành thử ra hồi ký của Bảy Nhiêu không còn đất trống để đăng. Chờ đợi mãi dần dà cho đến 30 Tháng Tư, 1975, kể như “xù” luôn và hồi ký của Bảy Nhiêu chưa ra đời đã chết vậy!

    Trong lúc nghèo khổ lại gặp xui xẻo, mấy năm sau nghe tin ông qua đời tại Tân Ðịnh, Sài Gòn.

    Tờ nhật báo Sóng Thần có phần hùn với gánh hát Hùng Cường-Bạch Tuyết, do đó đêm nào nhân viên, ký giả cũng có mặt ở rạp Quốc Thanh với những Uyên Thao, Ðường Thiên Lý, Nguyễn Ðức Nhuận, Lý Ðại Nguyên, Huy Tường...




    Trích Hồi Ký Cụ Vương Hồng Sển
    Trả lời với trích dẫn Trả lời với trích dẫn  

  2. The Following 2 Users Say Thank You to Tuyetmai For This Useful Post:

    huongxua (28-08-2025), romeo (04-04-2013)

  3. Tuyetmai
    Avatar của Tuyetmai
    BẢY NHIÊU : Một nghệ sĩ lớn đa tài

    Nghệ sĩ Bảy Nhiêu, với hơn 30 năm theo nghiệp hát, 10 năm viết báo kịch trường, đã khẳng định: ông là một nghệ sĩ lớn, thuộc lớp tiên phong; nhà hoạt động và tổ chức sân khấu đa tài, có tinh thần dân tộc, chịu cách tân; đã góp công đầu trong xây dựng và phát triển nghệ thuật cải lương....

    Gốc gác người Hoa (Phước Kiến), ông nội Bảy Nhiêu sang Việt Nam hồi cuối thế kỷ XIX, đến lập nghiệp tại chợ Thốt Nốt, sinh ra người con trai là ông Huỳnh Văn Dung, lớn lên kết hôn với bà Nguyễn Thị Gấm là người Việt, cùng quê ở làng Thạnh Hòa - Trung Nhứt, quận Thốt Nốt. Hai người ăn ở với nhau khá đông con, đến khi sinh Bảy Nhiêu (1903) là người con trai út nên xem ông như là “con cưng”, là trụ cột trong gia đình.

    Cho đến năm 14 tuổi (1917), Bảy Nhiêu còn cắp sách đến trường ở Thốt Nốt. Vốn ham mê đờn ca, nên qua năm 15 tuổi, ông học đờn kìm, đờn tranh, học ca tài tử với các nghệ nhân quanh vùng. Gặp lúc phong trào lập gánh sôi nổi ở Nam Kỳ như: gánh Ca ra bộ Thầy Thận (Sa Đéc), gánh hát Kim Thời Đồng Bào Nam (Mỹ Tho)... đến Thốt Nốt biểu diễn, càng kích thích lòng say mê nghệ thuật của chàng trai trẻ Bảy Nhiêu. Khi lên Cần Thơ, học nội trú tại Trường tư thục Võ Văn vào năm 1919, ông hai lần trốn học theo gánh hát Ca ra bộ của Thầy Thận, rồi Đồng Bào Nam đến nỗi gia đình phải bắt về cưới vợ.

    Đi lên từ gánh Tập Ích Ban

    Tại chợ Thốt Nốt, gia đình ông Vương Có là người Tiều lai, giàu có nhứt nhì tại đây lúc bấy giờ. Sẵn lòng mê hát, nên ông đồng ý bỏ vốn lập gánh Tập Ích Ban, với sự hùn công của Bảy Nhiêu, Mộc Quán - Nguyễn Trọng Quyền và một số thân hữu.

    Qua 4 tháng viết tuồng, ăn, tập đến ngày 18-10-1920 - gánh chính thức khai trương với tuồng hát “Tình duyên phấn lạt”, được khán giả Long Xuyên, Thốt Nốt hết sức ủng hộ.

    Do “cóp” được từ cách ca “Tứ đại oán pha xuân” của kép Hai Giỏi, lại là kép đẹp nên chẳng mấy chốc Bảy Nhiêu được khán giả khắp nơi mến mộ, trở thành kép nhứt. Thành công bước đầu tạo phấn khích, Tập Ích Ban lưu diễn khắp Nam kỳ lục tỉnh, qua luôn bên Campuchia, đến Nam Vang diễn ngót nửa tháng, kết quả có thể nói là “hốt bạc”, nên lương của Bảy Nhiêu cũng lên đến 30 đồng/tháng, cao nhứt trong gánh. Đặc biệt, năm 1922 khi đến hát ở Bạc Liêu, Bảy Nhiêu lần đầu được nghe bài Dạ cổ Hoài Lang (sau này là bài vọng cổ). Thấy hay, phù hợp với sân khấu cải lương nên ông tìm thầy dạy, rồi cùng soạn giả Mộc Quán - Nguyễn Trọng Quyền đưa vào tuồng hát, được khán giả tán thưởng. Đây cũng là lần đầu tiên tuồng cải lương sử dụng bài vọng cổ.

    Cho đến giữa thập niên 20 của thế kỷ XX, phong trào lập gánh cải lương rầm rộ khắp Nam Kỳ, với các đại ban hùng hậu: Văn Hí Ban, Tân Thinh, Tập Ích Ban, Tái Đồng Ban. Sau đó là Trần Đắc, Huỳnh Kỳ... Ngoài Năm Phỉ, Tám Danh, Bảy Nhiêu đã xuất hiện thêm những khuôn mặt “trứ danh” khác như: Phùng Há, Năm Châu, Tám Mẹo. Năm 1925 ông Nguyễn Ngọc Cương (bầu Cương - cha NSƯT Kim Cương, gia đình ba đời làm chủ gánh hát bội), đứng ra triệu tập một lớp nghệ sĩ thượng hạng lập gánh Phước Cương với: Năm Phỉ, Tám Danh, Bảy Nhiêu, Ba Du, Sáu Chương, Bảy Lựu, Tư Huệ... gánh chủ trương hát tuồng Tàu, ông bầu Cương phải mướn 1 kép hát Quảng nổi tiếng là Hườn Phì (Huỳnh Phi) đến dạy biểu diễn. Đào Năm Nhỏ (ngôi sao hát bội bậc nhất thời đó - vợ lớn bầu Cương) cũng đem sở trường dạy cho Năm Phỉ, Bảy Nhiêu, Tám Danh. Sau 6 tháng tập tuồng, qua các vở: Phụng Nghi Đình, Xử án Bàng Quí Phi, Tam Tinh xuất thế, Vợ Ngũ Vân Thiệu bị tên - Gánh Phước Cương chính thức khai trương tại rạp Me-derme-cinéma, đường Lê Thánh Tôn (Sài Gòn bây giờ). Bảy Nhiêu đóng vai chính Tấn Vương, cùng Năm Phỉ trong tuồng khai trương Tam Tinh xuất thế. Phước Cương trở thành một đại ban trong ngành cải lương từ Nam chí Bắc. Năm 1927, Phước Cương xoay qua diễn tuồng xã hội và thành công với các vở: Số độc đắc, Tứ đổ tường, Duyên chị tình em... Các vai tuồng mà Bảy Nhiêu, Tám Danh đóng cặp với đào Năm Phỉ trở thành mẫu mực trong nghề cải lương với vai Bàng Quí Phi (Năm Phỉ), Tống Nhơn Tôn (Bảy Nhiêu), Anh chồng ghiền (Tám Danh).

    Năm 1931, chính phủ thuộc địa Nam Kỳ cử gánh Phước Cương (gồm 12 nghệ sĩ) sang hát trong cuộc đấu xảo tại rừng Vincènnes, Thủ đô Paris Pháp, với 3 vở tuồng: Xử Án Bàng Quí Phi, Tứ Đổ Tường, Phụng Nghi Đình. Gánh trình diễn suốt 1 năm tại Pháp và Hà Lan, kể cả nơi sang trọng nhứt là sân khấu tòa Thị sảnh Paris, được báo chí và công chúng khán giả Pháp hoan nghênh nhiệt liệt. Trong đợt lưu diễn này, cùng với Năm Phỉ, Tám Danh - Bảy Nhiêu từ đó trở thành kép hát đứng đầu bảng trên sân khấu Nam Kỳ.

    Làm bầu – lập gánh hát

    Năm 1934 Bảy Nhiêu, Tám Danh cùng một số nghệ sĩ thành lập gánh Tiếng Chung, như một đoàn cải lương tập thể. Tuy nhiên, do không thống nhất với nhau, nên Tiếng Chung chưa tròn 1 tuổi đã phải rã gánh.

    Một thời gian sau, gánh Phước Cương đổi tên Đại Phước Cương tập hợp một dàn nghệ sĩ tài danh như: Bảy Nhiêu, Năm Châu, Ba Vân, Ba Du, Từ Anh, Tám Mẹo... “Đào” có: Bảy Ngọc, Năm Phỉ, Thanh Tùng, Bảy Nam, Ngọc Sương, luôn cả Ái Liên người đất Bắc... Lúc này, hai con gái Bảy Nhiêu: Kim Cúc, Kim Lan đã trưởng thành, nên cũng bắt đầu tham gia nghề hát cùng cha. Đại Phước Cương đi hát khắp 3 miền Nam, Trung, Bắc, tăm tiếng lẫy lừng, đến nỗi quan Thượng thơ - Triều đình Huế (thời Bảo Đại) gởi thơ cho bầu Cương, chuyển lời Hoàng Thái Hậu và Hoàng Thái Thái Hậu mời gánh Đại Phước Cương vô cung An Định diễn tuồng Quan Âm Thị Kính, để mừng lễ thọ của Hoàng Thái Hậu, đó là năm 1936. Sau cuộc diễn Năm Phỉ và Bảy Nhiêu được triều đình thưởng “mề đai” (huy chương). Từ năm 1937, gánh Đại Phước Cương dần xuống dốc, các nghệ sĩ lần lượt ra đi. Bảy Nhiêu cố bám trụ ở lại, để khắc phục tình trạng thiếu tuồng mới nên Bảy Nhiêu mạnh dạn bắt tay viết tuồng, làm thầy tuồng với cải lương xã hội đầu tiên, mang tên Thất vọng. Trong đó, ông cũng sáng tác một điệu nhạc mới là Châu Lang Diệu Khúc (sau gọi là bản Hoài tình) được giới sân khấu sử dụng cho đến sau ngày giải phóng.

    Cuối năm 1937, gánh Đại Phước Cương được mời sang Xiêm hát ở cuộc lễ mừng Hiến pháp Thái Lan tại kịch viện Hoàng gia, với các vở: Xử án Bàng Quí Phi, Tơ vương đến thác, Điên vì tình. Tại đây, Bảy Nhiêu có dịp chứng kiến và học hỏi sự phát triển của nền nghệ thuật sân khấu nước bạn.

    Về nước một thời gian, gánh Đại Phước Cương giải tán, Bảy Nhiêu và 2 cô con gái: Kim Cúc, Kim Lan đi hát cho gánh Tân Tân, nhưng chỉ được vài năm gánh này cũng rã.

    Nghỉ hát một thời gian, có một nhà Mạnh Thường Quân là Bà Bảy N. giúp cho Bảy Nhiêu mượn tiền lập gánh Nam Phương, chính thức làm bầu gánh.

    Nam Phương ra mắt thành công, lưu diễn trong Nam ngoài Bắc với nhiều tuồng mới. Có thể nói, đây là giai đoạn ông dốc hết tâm huyết ra để xây dựng một gánh cải lương hiện đại, quản lý theo lối gia đình. Đặc biệt, ông dự tính cải cách nghệ thuật cải lương theo hướng thoại kịch. Đồng thời, mạnh dạn đề ra phương thức quảng cáo bằng xổ số, tặng ảnh nghệ sĩ, rao bảng ngoài đường phố v.v... Thế rồi, gặp lúc chiến tranh gánh Nam Phương đành phải giải tán, sau thời gian dài phát triển.

    Năm 1947, khi thời cuộc tạm lắng Bảy Nhiêu hợp tác với Năm Châu thành lập gánh Con Tằm, trong đó có nhiều nghệ sĩ nổi tiếng như: Phùng Há, Ba Vân... nhưng cũng không tồn tại được lâu. Bảy Nhiêu nỗ lực củng cố gánh Nam Phương trở lại. Tuy vậy, gánh đã gặp một tai nạn thảm thương, nên con đường làm bầu gánh của ông gần như kết thúc. Đến đây, có thể nói chấm dứt khoảng đời theo gánh hát hơn 30 năm của nghệ sĩ Bảy Nhiêu.

    Điều đáng quý là trong giai đoạn xã hội và sân khấu Sài Gòn hết sức “xô bồ”, khi Mỹ xâm lược miền Nam – Bảy Nhiêu vẫn giữ được phẩm chất, đạo đức, nhân cách của một nghệ sĩ lớn; luôn bảo vệ quan điểm, đề cao tính nghệ thuật truyền thống trong cải lương, không chấp nhận các hình thức lai căn, mất gốc.

    Chuyển sang lĩnh vực báo chí - viết kịch trường, hồi ký

    Ở giai đoạn cao tuổi cho đến những năm cuối đời, thỉnh thoảng Bảy Nhiêu cũng đi hát “chầu” một vài buổi hoặc góp mặt trong các Đại nhạc hội, đóng vài bộ phim như Người đẹp Bình Dương, Ngậm ngùi... do máu nghề còn thôi thúc trong ông. Theo hồi ký “ Những vui buồn trong đời đi hát”, ông ghi rõ vào ngày 18-10-1954, là ngày ông “ly dị” với sân khấu kịch trường.

    Nghỉ hát, Bảy Nhiêu và gia đình về ngụ và mở quán cà phê tại đình Phú Hòa (Tân Định - Sài Gòn). Hàng ngày có rất nhiều anh chị em nghệ sĩ đến quán để hàn huyên, luận bàn chuyện nghề, nhất là cánh báo chí, lôi kéo ông qua nghề báo. Thật ra, ông bắt đầu tham gia viết trang kịch trường ở các báo Tiếng Dội, Văn Nghệ Ái Hữu... từ năm 1951, nhưng cho đến khoảng sau năm 1954 Bảy Nhiêu mới có điều kiện chính thức gia nhập làng báo. Ông thường xuyên cộng tác, chuyên viết thể loại phê bình sân khấu cải lương đương thời, trên nhiều nhật báo. Đáng kể nhất là ông viết lên những thiên “ký ức”, “hồi ức” và “hồi ký” về cuộc đời đi hát hơn 30 năm, trong đó ghi chép khá tỉ mỉ từ buổi đầu hình thành đến thời cực thịnh của nghệ thuật cải lương. Những bài viết của ông như một pho lịch sử về loại hình nghệ thuật này, mà sau này – các nhà nghiên cứu khi thực hiện các công trình về cải lương, đều lấy đó làm căn cứ “Nổi trong ánh đèn màu”, “Buồn vui đời đi hát,v.v... là những thiên hồi ký hết sức giá trị của ông.

    Nghỉ hát, Bảy Nhiêu về sống cuộc đời nghệ sĩ nghèo ở mái đình Phú Hòa, cho đến ngày lâm bệnh qua đời ngày 1-6 âm lịch, năm 1976. Khi ấy, hai người con gái của ông là NSƯT Kim Cúc và con rể là Năm Châu vẫn còn nặng nợ “Con Tằm”, cho đến khi qua đời. Thế hệ con, cháu ngoại của ông tiếp bước con đường đi hát một thời gian, rồi giã từ sân khấu, chỉ còn độc nhất cô cháu gái út là nữ đạo diễn Hồng Dung (con Năm Châu - Kim Cúc), hiện là Phó Chủ tịch Hội Sân khấu TPHCM. Tại xã Trung Nhứt, thân tộc Bảy Nhiêu hiện vẫn còn sinh sống và lưu giữ nhiều ký ức, kỷ vật về ông.

    NHÂM HÙNG-Báo điện tử Cần Thơ
    Trả lời với trích dẫn Trả lời với trích dẫn  

  4. The Following 3 Users Say Thank You to Tuyetmai For This Useful Post:

    DOHOANG (03-09-2025), huongxua (28-08-2025), romeo (04-04-2013)

  5. huongxua
    Avatar của huongxua
    Nghệ sĩ Bảy Nhiêu và cuốn hồi ký thất lạc

    Vài bài viết về nghệ sĩ sân khấu tiền phong Bảy Nhiêu có đề cập đến cuốn hồi ký ông viết ở tuổi 70 ở Sài Gòn đăng trên báo Sóng thần. Hồi ký có tên Những vui buồn trong đời đi hát, ghi trên chục cuốn vở, được ký giả Ngọa Long biên tập, báo chưa đăng trọn thì phải ngưng trong cơn khó khăn của báo giới giữa những biến động xã hội năm 1974.

    Qua phần trích viết về nghệ sĩ Ba Lễ trong Tạp bút năm Nhâm Thân 1992 của cụ Vương Hồng Sển, người đọc cảm nhận hồi ký nghệ sĩ Bảy Nhiêu là một tài liệu quý giá để tìm hiểu nghệ thuật cải lương Nam bộ và về chính tác giả - một trong những nghệ sĩ tiền phong được đánh giá cao của sân khấu cải lương. Rất tiếc tài liệu quý này - ngoài một ít trích đoạn đăng trên sách báo – sau 40 năm vẫn chưa có dịp ra đời...

    Những mảnh hồi ức vội bán đi

    Đạo diễn Hồng Dung, cháu ngoại nghệ sĩ Bảy Nhiêu kể rằng khi ông ngoại chị còn sống, chị có thấy ông tập hợp lại từng kỳ hồi ký đăng báo dán vào trong một cuốn sổ ca-rô lớn. Sau năm 1975, ông giao cho con gái, tức mẹ của chị là nghệ sĩ Kim Cúc giữ vì ông đang sống chung với người con trai thứ tư từng là cảnh sát chế độ cũ. Ông sợ nhà nước xét nhà, tưởng tài liệu gì mà lấy đi thì nguy. Chị Dung nhớ mấy chị em trong nhà trước kia không thích đọc các kỳ báo của ông ngoại, nhưng khi đóng thành tập thì thay nhau đọc kỹ và rất thích. Bên các trang báo dán đó, ông Bảy Nhiêu ghi chú tỉ mỉ những chuyện bên lề, những chỗ cần sửa lại cho đúng, nói thêm cho rõ.


    Chân dung nghệ sĩ Bảy Nhiêu năm 1958

    Năm 1976, cả nước rất khó khăn. Ông Bảy Nhiêu bị tai biến, cần tiền chữa bệnh nên có ý định bán cuốn hồi ký đó. Chị Hồng Dung nhớ một ngày trong năm, ông ngoại đi xích lô đến nhà chị tại cư xá Chu Mạnh Trinh, bảo đưa lại cho ông cuốn hồi ký rồi lên xe đi. Lúc đó, nhà chỉ có bà Bảy Nhiêu và nghệ sĩ Kim Cúc. Mẹ chị tiếc lắm nhưng cả nhà đang lúc khó khăn như tất cả mọi người, chồng là nghệ sĩ Năm Châu cũng đang bệnh, không có tiền giúp được thì đành để cha mang hồi ký đi trong tâm trạng buồn tiếc. Không ai biết ông bán cuốn đó cho ai, họ mua để làm gì. Người trong nhà nghĩ rằng có thể người mua muốn giúp đỡ ông chứ không phải người trong nghề muốn đọc, muốn tìm hiểu.

    Không lâu sau, nghệ sĩ Bảy Nhiêu qua đời vào tháng 6.1976. Sau này, chị Hồng Dung tiếc nhớ những trang viết của ông ngoại nên đã vào Thư viện Tổng hợp xin sao chép từng kỳ trên báo... Rồi chị giao bản sao này cho Thư viện tỉnh Cần Thơ, không lưu lại cho gia đình một bộ nào.

    Chị hy vọng đến một lúc nào đó có thể gặp được người mua cuốn sổ dán các trang hồi ký do ông ngoại bán đi, để xin chuộc hoặc sao lại. Đối với chị, ngoài nội dung, còn có những dòng ghi chú bên lề rất có giá trị của ông mà bản sao không có được. Hơn 40 năm qua, điều đó vẫn chỉ là mơ ước.

    Còn lại một mảnh

    Trong bán nguyệt san Tin văn số 13, số đặc biệt “Kỷ niệm nửa thế kỷ sân khấu cải lương”, may thay có in 22 trang Ký ức của Bảy Nhiêu – nghệ sĩ tiên phong của sân khấu cải lương. Trong đó, nghệ sĩ Bảy Nhiêu nhắc đến thuở ban đầu ông đến với bộ môn nghệ thuật này khi còn đi học ở Cần Thơ. Đây là tài liệu quý, có thể là một phần trong tập hồi ký nói trên. Xin lược trích vài mốc thời gian liên quan đến đời nghệ sĩ Bảy Nhiêu.

    Năm 1918, đang trong lớp học, cậu bé 16 tuổi Huỳnh Năng Nhiêu bỗng nghe tiếng trống xập xình hòa với tiếng đàn kìm, cò, đoản… đánh bản Madelon. Cả thầy lẫn trò lập tức chạy ra chen nhau trong cổng rào trường Võ Văn, Cần Thơ và thấy có cờ tam sắc treo chung quanh chiếc xe song mã. Trên xe có các tài tử và hai người hóa trang thành hề hát xiệc ngồi phía trước để phát chương trình biểu diễn tối đó. Khi xe khuất, giáo sư ra lệnh “Cấm tất cả học trò đi xem hát!”. Lập tức, Nhiêu rủ ngay đứa bạn cùng lớp con ông chủ thợ bạc lớn nhất Cần Thơ: “Tối nay tao với mày leo tường đi xem hát!”. Anh kia đồng ý ngay, về nhà ăn cắp của gia đình cây neo một lượng vàng đem bán. Cả hai đến trước rạp Mesner mà người ta thường gọi là rạp Thầy Lý, thấy tấm bảng có hàng chữ: “Gánh hát kim thời Đồng Bào Nam – Mỹ Tho”. Cả hai mua vé “cá kèo” vô xem, đến tuồng Cô Ba lưu lạc được xem kép Hai Giỏi vai công tử bận áo the dài, đầu rẽ lệch bảy ba, cầm gậy, mang giày bốt-tin đen, đội nón nỉ ca bài Tứ Đại Oán pha Xuân. Kế đó, xem nhân vật Cô Ba lưu lạc do cô đào Năm Phỉ đóng mặc bộ áo dài tới gối màu hồng phấn, choàng khăn “sạt” cùng màu, mang giày thêu cườm, tay cầm khăn mù soa xanh nhạt có ren, tóc chấm vai. Những hình ảnh hào nhoáng ấy khiến chú học trò Bảy Nhiêu choáng váng, tương tư Cô Ba lưu lạc, bỏ học, móc tiền nhà trốn theo gánh Đồng Bào Nam.

    Năm 1919, nhà trường của Bảy Nhiêu cho ba má ông biết chuyện con trai họ đã bỏ học. Gia đình kéo ông về nhưng rồi lại chứng nào tật nấy… Bảy Nhiêu tiếp tục lấy tiền nhà trốn theo gánh hát, rồi bị kéo về, vài chục lần như vậy.
    Năm 1920, Bảy Nhiêu bị “quản thúc” và bị buộc phải cưới vợ. Người vợ đó chính là thân mẫu của hai nghệ sĩ Kim Cúc, Kim Lan sau này.

    Nghệ sĩ Bảy Nhiêu trong vai sư cụ chùa Vân trong cuốn phim Quan Âm Thị Kính do nghệ sĩ Năm Châu hợp tác với hãng phim Mỹ Vân thực hiện khoảng năm 1956

    Từ năm 1920 đến 1923, các đại gia có tiền đua nhau lập gánh hát. Bảy Nhiêu nghe nói ông Phó Mười Hai ở Vĩnh Long bày ra một lối hát, lấy chữ “ca ngâm” để làm ra tuồng hát. Bảy Nhiêu được xem tận mắt những gánh hát như: Nam Đồng Ban có cặp kép đào Hai Giỏi và Năm Phỉ cùng các kép Tư Út, Hai Ngời, Sáu Đảnh… đào có các cô Hai Thà, Sáu Chức... Thầy tuồng là ông Nguyễn Công Mạnh. Trong tỉnh Mỹ Tho có thầy Năm Tú lập “Gánh hát Thầy Năm Tú - Mỹ Tho” có thầy tuồng Trương Duy Toản hát toàn tuồng Kiều. Có thầy Thận đề bảng “Gánh hát Thầy Thận - Sa Đéc”.

    Ông Vương Có, một người giàu nhất Thốt Nốt xuất tiền lập gánh hát lấy tên Tập Ích Ban giao cho Bảy Nhiêu kiếm những người đi làm công, buôn gánh bán bưng, học thợ bạc… dạy ca, tập điệu bộ để ra diễn. Gánh có thầy tuồng Nguyễn Trọng Quyền tự Mộc Quán Tử đặt tuồng tích theo các gánh hát Tiều và giữ kỷ luật y như họ, là ăn ngủ có giờ giấc, đi chơi có người dìu dắt nam nữ riêng biệt, không làm giao kèo lấy tiền trước, cho ăn lương tháng rẻ mạt. Đêm 18.10.1921, gánh này khai trương tại đình Trung Nhất ở Thốt Nốt, cũng là đêm đầu tiên Bảy Nhiêu ra sân khấu ca ngâm hát xướng, trở thành kép hát từ đó khi vợ mới sanh đứa bé là nghệ sĩ Kim Cúc sau này. Cùng năm đó, ông xuống Bạc Liêu học ca Vọng cổ hoài lang và học đàn bản vọng cổ với nhạc sĩ Ba Chột con của cụ Nhạc Khị, mà người ta cho là hậu tổ của nhạc lễ và nhạc cổ điển.

    Theo nghệ sĩ Bảy Nhiêu, 1922 là năm mà danh từ “cải lương” xuất hiện. Lúc đó ông đang ở gánh Tập Ích Ban, thì nghe tin gánh Tân Thinh của ông Trương Văn Thông (Sa Đéc) hát tại chợ Long Xuyên. Chủ gánh cho tất cả đào kép đi xem. Thấy bảng hiệu đề “Gánh cải lương Tân Thinh – Sài Gòn”, Bảy Nhiêu phân vân không hiểu “cải lương” là hát gì, có nghĩa là sao. Ông nhận thấy đào kép gánh này ca hay quá, nhất là kép Hai Nhiều ca Tứ đại xuân thật độc đáo. Bảy Nhiêu cho rằng danh từ “cải lương” là từ gánh Tân Thinh mà ra, xuất hiện trước nhất dù không biết ai nghĩ ra từ này.

    Trong thời gian đó có nhiều gánh xuất hiện. Gánh Tập Ích Ban của ông không dám ló mặt lên Sài Gòn mà chỉ quanh quẩn hát ở miền Hậu Giang.


    Đóng trong một vở kịch của ban kịch Anh Lân năm 1960

    Năm 1922 đến 1923 là khoảng thời gian hát tuồng Tàu thịnh hành. Gánh Văn Hí Ban trong Chợ Lớn của ông Huỳnh Kim Vui vốn là đại ban có đào nhất là cô Tô Ngọc Diêu tài sắc vẹn toàn. Gánh này mở đầu tuồng Tàu bằng vở Triệu Kinh Nương đưa Triệu Khuôn Dẫn qua gộp, hốt bạc quá xá nên các gánh khác ùa theo hát tuồng Tàu. Bất ngờ gánh Tái Đồng Ban - Mỹ Tho của ông bầu Hai Cu (thân sinh của kép Hai Giỏi) ra đời với dàn đào kép hùng hậu như Phùng Há, Năm Châu, Ba Du, Tư Út, và các thầy tuồng Nguyễn Công Mạnh, Nguyễn Thành Châu (Năm Châu), Huỳnh Thủ Trung (Tư Chơi). Gánh này diễn những vở tuồng Tàu như Mộc Quế Anh dâng cây, Phụng Nghi Đình… Đêm nào gánh đề bảng: “Mai có đánh đồ thiệt” là ông chủ gánh thu tiền vô như nước. Đánh đồ thiệt ở đây là lăn khiên, gươm giáo, đinh ba, mã tấu, đao, kích toàn bằng sắt xi niken, cán bằng tầm vông, nhiều pha đánh thật rùng rợn nổi da gà. Thấy vậy, các gánh hè nhau “đánh đồ thiệt” đến nỗi có lúc đào kép bị trầy da, đổ máu.

    Cuối năm 1924, Bảy Nhiêu tính chuyện lìa gánh Tập Ích Ban vì thấy chủ đối đãi không tốt với đào kép mặc dù kiếm được rất nhiều tiền từ họ. Sau khi hát xong đợt diễn Tết, ông rời gánh. Nằm nhà hơn ba tháng thì ông được cậu Tư Phước George (Bạch công tử) từ Mỹ Tho lên rước ông đi Sóc Trăng vì gánh Tái Đồng Ban định bán cho cậu. Nhưng cuối cùng, vì lý do riêng tư, ông theo gánh Phước Cương của ông bầu Nguyễn Ngọc Cương.

    Theo ông, từ “ông bầu” được dùng đầu tiên xuất phát từ gánh Phước Cương để gọi ông Nguyễn Ngọc Cương. Nghệ sĩ Bảy Nhiêu theo diễn ở gánh Phước Cương từ năm 1925 đến 1931, cùng cả đoàn đi diễn trong cuộc đấu xảo thuộc địa ở Paris tại rừng Vincennes (Pháp).

    Trong thời gian này, báo Sài Gòn số 703 (ngày 2.12.1935) nhắc đến nghệ sĩ Bảy Nhiêu: “Đóng trong tuồng cải lương mà người Pháp để ý thiệt là khó vì người Pháp không nghe được âm nhạc và hiểu điệu ca, chỉ thấy bộ tịch của Bảy Nhiêu xuất sắc ca tụng các báo bên Pháp. Hiện giờ Bảy Nhiêu đi cặp với Năm Châu, Năm Phỉ và Tư Tùng sẽ ra mắt bà con Sài Gòn nay mai”.

    Năm 1937 ông đi hát tại cuộc lễ Hiến pháp một tháng ở Bangkok (Thái Lan), được Hội Mỹ thuật mời xem hát tại rạp Sila Pacol của ông vua thứ XIII tên Pra Pram Hok, đã từng sang Thụy Sĩ mười năm để học chữ, học âm nhạc và diễn kịch.

    Bảy Nhiêu trong cuốn hồi ký của người bạn xứ Bắc


    Ngoài cuốn hồi ký của chính mình, nghệ sĩ Bảy Nhiêu còn được nhắc tới khá dài trong một cuốn hồi ký khác của bạn bè xứ Bắc. Tài liệu này quan trọng vì người viết chứng kiến lần biểu diễn nổi tiếng nhất của ông trên sân khấu Paris.

    Qua những lần diễn tại Hà Nội, Bảy Nhiêu được giới trí thức Hà Nội quý mến. Năm 1931, ông Đặng Trọng Duyệt trong ban biên tập báo Đông Tây tại Hà Nội được chủ bút là Lãng Nhân cử đi Pháp đại diện cho báo này tại Paris. Ở đó, ông có dịp kết thân với nghệ sĩ Bảy Nhiêu đang trình diễn tại Hội chợ Vincennes. Ông Duyệt đã lên tiếng khi nhận thấy đoàn “Cải lương Sài Gòn” không được đón tiếp chu đáo và sau đó ban tổ chức phải sắp xếp chỗ ăn ở tốt hơn. Ông Chu Mậu, một người bạn của Bạch công tử tức Phước George đã tặng cho Bảy Nhiêu một bộ habit. Đây là bộ habit mặc đầu tiên trên sân khấu Việt Nam trong vở Áo người quân tử.

    Hai câu chuyện trên do ông Dương Thiệu Thanh, tác giả cuốn hồi ký Mấy chàng trai thế hệ trước xuất bản tại Sài Gòn năm 1969 kể lại vì là bạn thân của các vị nêu trên. Là một trí thức Hà Nội, ông quen thân với nghệ sĩ Bảy Nhiêu qua những chuyến lưu diễn của nghệ sĩ miền Nam tại đây. Ông Dương Thiệu Thanh đánh giá: “Bảy Nhiêu, tài danh số một thưở nào của gánh Phước Cương đóng cặp với minh tinh Năm Phỉ, khi đoàn hát Trung du, Bắc du, xuất ngoại… đã nâng cao nghệ thuật “hát cải lương” từ 40 năm về trước mà ngày nay được coi là một trong những bộ môn quan trọng nhất của nền ca kịch Việt Nam. Ngôi sao sáng chói Năm Phỉ và Bảy Nhiêu đương nhiên được ghi bảng vàng, trong số văn nghệ sĩ tiền phong đã góp công đầu xây dựng bộ môn này. Công đầu lớn lao ấy đã đi rất xa từ chỗ hát tại các đình, chùa ở địa phương lên đến tỉnh, lên đến các “rạp hát lớn” tại Sài Gòn, Huế, Hà Nội, tại các nước láng giềng rồi qua Pháp trong những năm 1931-1934”.

    Trong mối thân tình này, ông Dương Thiệu Thanh còn có duyên chứng kiến cả ba vở mà đoàn Phước Cương trình diễn tại Paris trong cuộc đấu xảo thuộc địa 1931, đó là các tuồng Phụng Nghi Đình, tuồng Xử án Bàng Quý Phi và tuồng Tứ đổ tường. Tuồng Phụng Nghi Đình có Năm Phỉ vai Điêu Thuyền, Bảy Nhiêu vai Lữ Bố và Tám Danh vai quan Tư Đồ. Kịch Tứ đổ tường, Bảy Nhiêu vai anh ghiền, Năm Phỉ vai người vợ, được trình diễn tại Hotel de ville. Tuồng Xử án Bàng Quý Phi với Năm Phỉ vai Bàng Phi, Bảy Nhiêu vai Tống Nhân Tôn. Mỗi vở chỉ diễn trích đoạn một cảnh chính.

    Ông Dương Thiệu Thanh nhớ lại cảnh tưng bừng nhất trong đêm diễn đó: “Hàng trăm ngàn bông hồng tươi thắm của khán giả Ba Lê ném lên sân khấu khi hạ màn: Khi có Năm Phỉ và kịch sĩ Bảy Nhiêu chào khán giả ngoại quốc” và tường thuật chi tiết: “Năm Phỉ Bàng Phi với giọng ca hấp dẫn lạ thường, xõa tóc van xin chồng, ông vua trẻ, ngừng phê án tử hình, do Bảy Nhiêu đóng. Tống Nhơn Tôn rất uy nghi, đúng điệu. Trong cảnh này có “cái thật của kịch” bởi vở Xứ án Bàng Quý Phi không phải là tuồng mà là ca kịch cải lương, nên cái thật, tính chất kịch, đã làm mủi lòng hầu hết khán giả. Tây đầm ngồi xem im thin thít, rút khăn tay ra thấm nước mắt, bởi đã có những bài giải thích trước. Một vài cô đầm trẻ đẹp không biết có hiểu rõ cốt truyện không, cũng tỏ ra xúc động, nức nở khóc... Quả thật như vậy, các cô ấy khóc đúng vào phút của đoạn kết khi Năm Phỉ quỳ khóc dưới gối, liếc mắt buồn thảm nhìn lên, van xin Tống Nhơn Tôn, tay cầm bút, phút hồi hộp, phút quyết định sống chết của tội nhân là vợ và ông vua quan tòa là chồng (...). Tống Nhơn Tôn hạ bút ký. Bàng Phi ngất xỉu, bức màn cũng từ từ hạ xuống trong phút này. Theo sự nhận xét riêng của kẻ viết hồi đó, Bảy Nhiêu đã thành công trong một vai tuồng rất khó khăn, bởi phải đóng kịch, phải gần “cái thật”...

    Bức ảnh ghép nghệ sĩ Bảy Nhiêu đối diện với chính mình, trong quán cà phê ở đình Phú Hòa, nơi ông mở làm kế sinh nhai cho đến cuối đời. (Ảnh trong bài do gia đình nghệ sĩ Bảy Nhiêu cung cấp)

    Trở lại cuốn hồi ký Những vui buồn trong đời đi hát. Về quyết định từ giã đời sân khấu, Bảy Nhiêu kể rất giản dị: “Đến 1928, tôi cộng tác với đoàn “Việt kịch Năm Châu” cho đến ngày 18.10.1954, tại rạp Nguyễn Văn Hảo, khi màn nhung khép lại để kết thúc vở “Gió ngược chiều”, tôi rửa mặt phấn son và trả lại bộ quần áo “cà mèn” rách te tua lại cho ông Tổ, và từ giã luôn cái sân khấu thân yêu đã hơn 33 năm đi hát (18.10.1921-18.10.1954). Mang rương và lê tấm thân về làm tên phổ-ky ở quán Cà phê Phú Hòa cho tới bây giờ”.

    Nhiều ký giả đến phỏng vấn vì sao lại giải nghệ sớm quá, ông trả lời: “Riêng tôi, cái sân khấu kịch trường không hậu thuẫn này phải “đá” nó trước để giữ lại cái gì gọi là “nghệ thuật ca kịch”, hơn là để sân khấu nó hất mình văng xuống vũng lầy”.

    Đó là cách nghệ sĩ tiền phong Bảy Nhiêu từ giã nghiệp tổ. Có thể sau 33 năm đi hát, ông mỏi mệt không còn màng đến hào quang sân khấu vì biết sau ánh màn nhung rực rỡ là những nhọc nhằn của đời nghệ sĩ. Ông “đi chỗ khác chơi”, không muốn “bẹo hình bẹo dạng” như người đồng nghiệp năm xưa là Huỳnh Thủ Trung từng nói, dù đang ở tuổi ngũ thập vẫn còn sung sức. Tuy nhiên nhờ đó, ông có thời gian và độ tĩnh cần thiết để bắt đầu viết cuốn hồi ký về đời nghệ sĩ của mình mà chúng ta nhắc ở đây, để mong có ngày nó sẽ được ra đời một cách đầy đủ.

    Phạm Công Luận - Ảnh: TLTG


    Trả lời với trích dẫn Trả lời với trích dẫn  

  6. The Following User Says Thank You to huongxua For This Useful Post:

    DOHOANG (03-09-2025)

ANH EM CHANNEL