Sau một thời gian dài Nghệ thuật Cải lương phát triển rực rỡ tại Nam bộ thì nay dường như chững lại, số lượng các vở Cải lương được dàn dựng cũng như lượng khán giả yêu thích đón xem loại hình nghệ thuật này ngày càng giảm sút, điều đó đã dự báo một nguy cơ cao về sự mai một, sự tồn tại và phát triển của nghệ thuật Cải lương.
Trong khi các sân khấu biểu diễn ngày càng vắng khách, số lượng dàn dựng ngày càng ít đi thì Truyền hình là một loại hình truyền thông đại chúng chuyển tải thông tin bằng hình ảnh và âm thanh đi xa bằng sóng vô tuyến điện, với vai trò và đặc thù của mình Truyền hình đã đưa những vở Cải lương lên sóng, giúp đưa Cải lương đến gần hơn với công chúng mộ điệu.
Cải lương trên Truyền hình Sài Gòn trước 1975
Sau một năm thử nghiệm, năm 1967- Truyền hình đã thu hút được khá nhiều người xem nên thời gian phát sóng đã có sự thay đổi từ 18g30 cho đến 20g30 mỗi ngày. Từ năm 1968 đã bắt đầu thu hình các chương trình như ca nhạc thiếu nhi Tuổi Xanh của kịch sỹ Kiều Hạnh, chương trình ca nhạc trữ tình Quê ngoại- đậm đà tình quê hương của nhạc sỹ Bắc Sơn, phim Mỹ, thời sự.
Cuối tuần thường có các chương trình sân khấu Kịch như “Chuyện BácTám” (giống chương trình Trong nhà ngoài phố sau này) nhưng chương trình được yêu thích nhất vẫn là các vở Cải lương, kịch đang ăn khách của các ban Dạ Lý Hương, Thanh Minh - Thanh Nga, Kim Cương, Túy Hồng, Thẩm Thúy Hằng …Do thời lượng các vở diễn từ trên 2 tiếng cho đến 3 tiếng nên chương trình truyền hình kéo dài đến khuya khoảng 23g.
Vào giai đoạn này, để có các chương trình Cải lương – kịch hay phục vụ khán giả vào những ngày cuối tuần thì Đài truyền hình thường hợp đồng các đoàn hát về thu hình các vở tại phim trường. Mỗi lần thu hình các đoàn mang đầy đủ cảnh trí vào dựng giống như diễn tại sân khấu, cũng như ban nhạc cổ đánh tại chỗ nên một ngày từ sáng đến tối có thể quay liên tục được 2 vở.
Tác phẩm đầu tiên được ghi hình là vở Cải lương Hồ Quảng Phụng Nghi Đình sau đó là Tiếng trống Mê Linh, Thái Hậu Dương Vân Nga, Lan và Điệp... rồi sau đó là các vở về đề tài xã hội phản ánh đời sống thành thị trong hoàn cảnh tao loạn chiến tranh, những cảnh đời bi đát, những nhân vật chống lại sự tha hóa trong đạo đức như Tấm lòng của biển,Con gái chị Hằng, Tuyệt tình ca, Vợ và người tình,Dưới hai màu áo, Lá sầu riêng.
Đã làm rơi nước mắt người xem từ già đến trẻ. Những vở diễn thu hút nhiều người xem vì sự góp mặt của các “đào kép” nổi tiếng như Phùng Há, Năm Châu, Ba Vân, Hùng Cường, Thành Được, Bạch Tuyết, Thanh Thanh Hoa, Bạch Lê, Thành Tôn...
Cải lương trên Truyền hình TP.HCM từ 1975 -1994
Sau giải phóng các máy móc được sản xuất tại Mỹ đã tới lúc phải đi bảo trì, quan trọng là các đầu từ ghi hình đã quá 100 giờ sử dụng nếu không gửi đi bảo dưỡng phục hồi ở hãng Ampex tại Mỹ thì không thể dùng được. Bên cạnh đó phụ tùng thay thế của các máy ghi hình cũng như các thiết bị khác cũng phải mua tại nơi sản xuất mới thích hợp, mà thời gian này nước ta lại đang bị cấm vận nên không thể mua được các thiết bị thay thế từ chính hãng.
Chính vì điều này nên trong những năm đầu sau giải phóng Đài chỉ ưu tiên dùng máy thu hình các chương trình tin tức, thời sự để phổ biến rộng rãi cho mọi người dân còn việc thu hình những vở Cải lương, kịch nói tạm thời bị ngưng lại, những chương trình giải trí trong những năm này chỉ là những ca khúc chính trị với thời lượng ngắn mà thôi.
Đến đầu năm 1978 sân khấu Cải lương trên truyền hình được khôi phục lại, được đầu tư bài bản hơn, mỗi lần quay sử dụng ba máy camera ECA. Lúc đó dùng băng ampex 60’ mỗi lần quay phải dùng 2 đến 3 băng cho một vở thu hình. Các vở diễn mang một màu sắc mới, cách dàn dựng không chỉ đơn thuần dựa theo nguyên bản của thầy tuồng và các nghệ sỹ cùng nhau tập dợt.
Do ảnh hưởng lối dàn dựng ở phía Bắc nên phải có đạo diễn đứng ra dàn dựng nhằm có cái nhìn khách quan hơn, sáng tạo hơn trong mỗi vở diễn. Bên cạnh đó phần âm nhạc đã có người viết nhạc riêng cho từng vở diễn không đơn thuần chỉ dùng mỗi cây đàn ghita phím lõm làm nền.
Nếu như trước đây các vở mang vào Đài với cách làm “có sao thu vậy”, thì nay đã có bộ phận biên tập cắt gọn lại những đoạn lê thê dài dòng để phù hợp hơn với việc phát sóng. Có đạo diễn hình chỉnh sửa từng khung hình sao cho bố cục đẹp, màu sắc, ánh sáng, âm thanh phù hợp và có ý nghĩa hơn.
Có một chuyện ít được biết đến, đó là thời kỳ này trong kho tư liệu còn nhiều bản thu hình sân khấu nhưng hệ thống băng đĩa phát sóng trước giải phóng không còn phù hợp để phát (hệ thống kynescop phát sóng trên telexin). Nếu thu hình lại những vở đó thì tốn kém chi phí mà những diễn viên tham gia trước đây như nghệ sỹ Thanh Nga lại không còn nữa.
Cân nhắc kỹ điều này nên anh em trong tổ kỹ thuật đã có sáng kiến chọn lọc những tác phẩm sân khấu hay, phù hợp với bối cảnh xã hội thời bấy giờ chiếu lên màn ảnh, rồi dùng camera thu lại toàn bộ vở diễn. Đó là cách để cứu những vở diễn hay, đặc biệt nhưng bên cạnh đó lại có nhược điểm là hình ảnh thường bị chớp, không rõ nét và việc làm này rất hại cho máy quay.
Từ năm 1987, các vở Cải lương tuồng cổ với nội dung “trung hiếu nghĩa” được Việt Hóa như Lưu Kim Đính, San Hậucũng đã bắt đầu được ghi hình phát sóng vào dịp Tết. Sau đó là các vở diễn về đề tài lịch sử như Anh Hùng bán than, Tô Hiến Thành xử án, Phạm Ngũ Lão...
Cũng được thu hình nhưng được giảm bớt các bài ca Hồ Quảng mà chèn thêm vào những bài lý, dân ca cho dễ nghe hơn để Cải lương đến gần hơn với công chúng. Những vở dàn dựng mới thì có Vòng cưới anh trao, Bên cầu dệt lụa...Nếu như trước đây Đài chỉ hợp đồng thu hình những vở diễn đã được dàn dựng sẵn của các gánh hát thì ngày nay Đài truyền hình đã chọn những kịch bản sân khấu với các chủ đề về tình yêu quê hương, xây dựng đất nước trong thời đại mới với vở diễn đầu tiên là “Bông huệ trắng” do đạo diễn Phan Vũ dàn dựng có sự góp mặt của cặp nghệ sỹ Bạch Tuyết, Minh Vương
Bên cạnh cách thu hình truyền thống trong phim trường thì vào năm 1988 ban Văn nghệ đã mạnh dạn làm theo kiểu “Ba lợi ích” kết hợp với nhà đầu tư tư nhân là Elvis Công thu hình các vở cải lương quay tại Đài truyền hình để phát hành băng đĩa (Video) ở nước ngoài nhưng Đài truyền hình được quyền phát sóng trong nước như Xin một lần yêu nhau, Đường gươm Nguyên Bá, Mắt em là bể oan cừu, Ai giết nàng Kiều, Những đứa con oan nghiệt.
Với sự có mặt của các diễn viên Thanh Tuấn, Minh Vương, Lệ Thủy, Út Bạch Lan, Thanh Kim Huệ...Cách làm này có nét mới ở chỗ đôi bên cùng có lợi, công chúng trong và ngoài nước có thêm những vở diễn hay để thưởng thức, nhân viên trong Đài có thêm thù lao và nhà đầu tư có cơ hội được làm nghệ thuật trên quê hương mình.
Cải lương trên Truyền hình TP.HCM từ 1994 đến nay
Vào thập niên 90 thế kỷ XX, sự phát triển của truyền hình đã góp phần không nhỏ vào việc cạnh tranh với sàn diễn. Đài thường dành những buổi cuối tuần để phát sóng các vở Kịch, Cải lương phục vụ khán giả xem truyền hình. Trước giải phóng có giải Thanh Tâm danh giá trao cho những nghệ sỹ tài danh có công đóng góp cho bộ môn nghệ thuật đặc biệt này.
Nối tiếp truyền thống đó vào năm 1995, Hội Sân khấu đã kết hợp với Đài truyền hình tổ chức trao giải thưởng Trần Hữu Trang lần đầu tiên theo hình thức tập hợp các nghệ sỹ để họ thể hiện tài năng qua những trích đoạn. Thời gian đầu mỗi năm tổ chức một lần, sau đó là hai năm một lần. Qua những lần tổ chức giải Trần Hữu Trang đã có các giải triển vọng được trao cho nghệ sỹ Vũ Linh, Phượng Hằng, Thanh Thanh Tâm, Kim Tử Long, Thoại Mỹ, Thanh Ngân.
Từ giải thưởng này Đài Truyền hình đã góp phần giới thiệu đến công chúng một thế hệ nghệ sỹ trẻ của sân khấu Cải lương có nền tảng về thanh sắc, ca diễn, họ tự tin và hết lòng đam mê với nghề. Trong số họ có nhiều nghệ sỹ tham gia giải nhưng chưa từng đảm nhận được những vai “đào”, “kép” chính nhưng vẫn cảm nhận được vai diễn tốt, ca ngọt, bộc lộ được tâm lí nhân vật sâu sắc.
Những năm gần đây Đài truyền hình đã chú ý đầu tư sản xuất các chương trình Cải lương nhằm đưa loại hình nghệ thuật này đến gần hơn với khán giả. Chương trình “Vầng trăng cổ nhạc”đã qua 15 năm, đây là một trong những chương trình có tuổi đời dài nhất, và là chương trình khởi xướng hình thức sân khấu Cải lương truyền hình trực tiếp phổ biến khắp các sóng truyền hình phía Nam.
Tháng 9 năm 2005 cuộc thi “Chuông vàng vọng cổ” được tổ chức lần đầu tiên với tên gọi “ Ngôi sao vọng cổ truyền hình”. Từ sân chơi chỉ có qui mô trong đài truyền hình tp. HCM đã tạo được tiếng vang và được đông đảo khán giả theo dõi. Với mục đích đưa nghệ thuật Cải lương của Nam bộ lan tỏa đến với mọi miền đất nước, năm 2009, cuộc thi mở rộng ra khu vực phía Bắc.
Với công tác tổ chức chuyên nghiệp, sự tuyên truyền bài bản, Chuông vàng vọng cổ đã tạo được uy tín lớn, trở thành món ăn tinh thần yêu thích của khán giả mộ điệu. Năm 2015 đánh dấu chặng đường 10 năm của “ Chuông vàng vọng cổ”, chương trình góp phần thực hiện hóa giấc mơ sân khấu của các tài năng trẻ, góp phần phát hiện và bồi dưỡng nhiều nghệ sỹ tương lai cho sân khấu Cải lương thành phố như Võ Minh Lâm, Hồ Ngọc Trinh, Cao Thúy Vy, Ngọc Đợi, Lê Văn Gàn, Võ Thành Phê, Thu Vân.
Tháng 11 năm 2011 ban văn nghệ đài truyền hình TPHCM đã cho ra đời chương trình “Ngân mãi chuông vàng” được phát sóng vào ngày thứ năm của tuần thứ ba mỗi tháng. Mỗi vở diễn của chương trình với sự tham gia của ê kíp chính là những thí sinh đoạt giải cao qua các kỳ thi “Chuông vàng vọng cổ” sẽ được truyền hình trực tiếp trên sóng HTV9.
Chương trình đã dàn dựng và làm mới lại những tác phẩm Cải lương nổi tiếng, những tác phẩm này đã ăn sâu vào tâm thức của khán giả yêu thích nghệ thuật Cải lương từ xưa đến nay như Người tình trên chiến trận, Tâm sự Ngọc Hân, Tấm lòng của biển, Tìm lại cuộc đời, Tâm sự loài chim biển...
Ngoài ra đài còn tổ chức chương trình “Giọt nắng phù sa”đây là Gameshow cổ nhạc duy nhất hiện nay ra đời vào năm 2010 do HTV thực hiện. Đây là sân chơi của những người yêu thích âm nhạc tài tử, cải lương với những phần thi thể hiện kiến thức cổ nhạc gồm thách đố bài bản, đoán tác phẩm và phần thi năng khiếu thí sinh sẽ trình diễn một bài bản tài tử, cải lương.
Chương trình có ý nghĩa rất lớn trong việc cổ vũ phong trào sinh hoạt Đờn ca tài tử , cải lương, góp phần đa dạng phương thức đưa cổ nhạc đến gần hơn với công chúng hiện nay. “Cải lương phim trường”là những vở được thu hình tại phim trường của đài, đây là thế mạnh của Cải lương truyền hình, có một nét đặc trưng riêng và được duy trì từ sau giải phóng đến nay.
Cải lương truyền hình là lĩnh vực hoạt đông sôi nổi nhất của giới sân khấu Cải lương và là nguồn chương trình Cải lương chủ yếu cho các giờ sân khấu của Đài. Xuất hiện từ năm 2004 “Phim truyện Cải lương”, cũng là một điểm đáng chú ý và thu hút được sự quan tâm của nhiều người. Trước đây Cải lương được thu hình ngoại cảnh cũng có khá nhiều và thường được gọi là video Cải lương.
Nhưng từ khi các chương trình sân khấu bị khống chế về thời gian, mỗi vở diễn chỉ được gói gọn trong 90 phút nên không thể chuyển tải hết được ý của tác giả. Lúc này Ban văn nghệ đã có “sáng kiến” đặt ra tên gọi “phim truyện cải lương” để tách mỗi vở ra thành nhiều tập, mỗi tập 45’. Như vậy một vở cải lương 180’ sẽ được thu hình và tách ra thành 4 tập và được phát sóng mỗi lần 1 tập vào các buổi tối thứ tư hàng tuần lúc 21g.
Đây là việc kết hợp sân khấu với điện ảnh và cũng mang đến cho các vở cải lương có một màu sắc mới. Bên cạnh đó, một điểm sáng nữa góp phần gìn giữ và đưa Cải lương đến với công chúng đó chính là chương trình “Cải lương Thuần Việt” trên sóng truyền hình cáp của HTV.
Cứ hai tháng, kênh Thuần Việt của HTVC lại tổ chức biểu diễn và thu hình những vở cải lương nổi tiếng, vang bóng một thời như: Tần Nương Thất, Bên Cầu Dệt Lụa, Trúng Độc Đắc, Má Hồng Soi Kiếm Bạc, Chất Ngọc Không Tan, Vụ Án Trộm Trứng Gà, Bóng Tối và Ánh Sáng.
Với sự tham gia của các nghệ sĩ gạo cội, là những nghệ sĩ đã từng biểu diễn trước đây cùng với các nghệ sĩ trẻ hiện nay trong cùng một vở diễn. Các vở diễn được tập dợt kỹ lưỡng, công phu, cảnh trí đẹp mắt, được tổ chức biểu diễn tại Nhà hát Lớn Thành phố, có khán giả xem trực tiếp và thu hình sau đó phát sóng. Đây là một cách làm đáng được trân trọng và hiệu quả của HTVC.
Mặt dù còn nhiều ý kiến trái chiều về chất lượng nghệ thuật của các vở diễn Cải lương trên sóng truyền hình, nhưng có thể nói trong khi các sàn diễn cải lương ngày càng mất đi, số lượng các vở diễn ngày càng ít, số lượng các suất diễn cải lương trên sân khấu ngày càng hiếm, thì việc đài truyền hình TPHCM trong từng giai đoạn đã có những cố gắng để duy trì và đưa cải lương đến với công chúng mộ điệu bằng nhiều cách khác nhau, đó là những cố gắng đáng được ghi nhận.