NHỮNG VAI DIỄN VÀNG NSUT GIANG CHÂU LÀ MỘT TRONG NHỮNG NGHỆ SĨ CẢI LƯƠNG KHÁ ĐA NĂNG VÀ SÁNG TẠO. ANH KHÔNG CHỈ THÀNH CÔNG Ở NHỮNG VAI KÉP MÙI, MÀ ANH CÒN THÀNH CÔNG CẢ VAI TÍNH CÁCH VÀ HÀI NỮA. CÓ THỂ NÓI NHỮNG VAI DIỄN CỦA NSUT GIANG CHÂU LÀ NHỮNG NHÂN VẬT BÌNH THƯỜNG NHƯNG ĐÃ ĐỂ LẠI TRONG LÒNG KHÁN GIẢ ẤN TƯỢNG KHÓ PHAI, ĐÓ LÀ NHỮNG NHÂN VẬT CÓ ĐỜI SỐNG VÀ SỐ PHẬN RẤT GẦN GŨI VỚI ĐỜI THƯỜNG : TRẦN HÙNG TRONG "TÌM LẠI CUỘC ĐỜI", THỪA TRONG "TIẾNG HÒ SÔNG HẬU", TRÙM SÒ TRONG "NGHÊU - SÒ- ỐC - HẾN"... BA VAI DIỄN NÀY ĐÃ GẮN LIỀN VỚI TÊN TUỔI CỦA ANH. HAY NÓI KHÁC ĐI, LÀ BA VAI DIỄN ĐỂ ĐỜI TRONG CUỘC ĐỜI LÀM NGHỆT THUẬT CỦA ANH.
NÉT ĐẶC BIỆT TRONG SÁNG TẠO NGHỆ THUẬT CỦA ANH CHO THẤY TỪ VAI MÙI ĐẾN VAI HÀI ĐỀU CÓ SỰ THÀNH CÔNG LÀ MỘT TRONG NHỮNG NGHỆ SĨ HIẾM CÓ, ĐÓ LÀ NÉT RẤT RIÊNG CỦA NSUT GIANG CHÂU.
NSUT Giang Châu (Trần Ngọc Châu), anh sinh ra (1952) ở huyện Chợ Lách - Bến Tre. Anh vốn có tâm hồn ca hát từ thời còn là học sinh do say mê nên tự học gián tiếp qua cassette, đài phát thanh và bạn bè là chính. Mãi cho đến khi thành danh, anh cũng chưa từng qua một trường lớp nào, hoặc một người thầy chính thức nào mà tự học gián tiếp bằng nhiều cách.
Khi còn là một thanh niên, bước đầu Giang Châu tham gia phong trào văn nghệ không chuyên ở quê nhà (1968). Từ đợt tết Mậu Thân-1968 , vùng Bến Tre bị chiến tranh ác liệt hơn, các thanh niên đều bị lùng bắt lính quân dịch. Lúc đó, Phong trào văn nghệ ở quê nhà của anh bị tan rả. Giang Châu trốn bắt lính, anh đi theo gánh hát.
Anh theo gánh hát với hai lí do: một là trốn đi lính, hai là vì mê ca hát nên chọn con đường theo gánh hát là hợp nhất với hoàn cảnh của anh lúc bấy giờ. Nhưng thời đó anh chỉ theo gánh hát nhỏ quanh quẩn vùng quê, gánh đầu tiên là Phước Châu (1971). Kế đó là gánh Ngân Điện - Ngọc Đính, Thanh Hương-Hùng Minh, Minh Cảnh 2...là những gánh ở tỉnh. Một hôm hát ở Lái Thiêu - Bình Dương, Giang Châu bị bắt lính (1972) nhưng anh trốn thoát rồi làm giấy khai sinh nhỏ tuổi. Sau đó anh qua gánh Trâm Hoa Mai hát kép chánh được mấy tháng rồi về gánh đại ban Hương Mùa Thu (1973). Tại đây, Giang Châu hát kép dàn bao và vai lão thế vai NS Hữu Phước. Năm sau anh về hát cho gánh Xuân Liên Hoa của NS Thanh Điền-Thanh Kim Huệ (1974) cho đến ngày Giải phóng.
Năm đầu Giải phóng (1975), NSUT Giang Châu vẫn còn quanh quẩn một vài đoàn hát ở tĩnh An Giang như Long Xuyên, Hoa Anh Đào,... Đến gần cuối năm 1976, Đoàn cải lương Sài Gòn 3 được thành lập, Giang Châu về hát đúp vai với NS Đức Minh trong "Mái Tóc Người Vợ Trẻ". Nhưng đây chỉ là vai tạo tiền đề cho buổi đầu anh hội nhập vào Cải lương thành phố ở cấp đại ban. Kế đó, anh về Đoàn Cải lương Sài Gòn 2 mới bắt đầu tạo dấu ấn với khán giả.
Một vai diễn mùi đầy tính cách, với hai yếu tố ca-diễn song hành, mà lúc đó NSND Diệp Lang làm trợ lý đạo diễn đã chọn cho anh. Đó là vai Kép nhì Trần Hùng trong vở "Tìm Lại Cuộc Đời" do NSND Huỳnh Nga đạo diễn; bên cạnh dàn nghệ sĩ tài danh như Thanh Tuấn, Mĩ Châu, Ngọc Bích, Diệp Lang, Hồng Nga, Văn Chung, Tư Rợm,... Đây cũng là một trong ba vai diễn để đời của NSUT Giang Châu trong giai đoạn vàng son của Cải lương.
Có lẽ, thời gian ở Đoàn Cải lương Sài Gòn 2, NSUT Giang Châu có nhiều cơ hội và điều kiện thuận lợi để cống hiến tài năng của mình. Tuy trước đây, anh đã trải qua nhiều đoàn hát nhưng chỉ mang tính trãi nghiệm với nghề: sân khấu chưa thật sự chính quy, anh chưa có vai diễn thích hợp, chưa có điều kiện gần gũi học hỏi những nghệ sĩ tài năng đi trước,...
Với sân khấu Sài Gòn 2 thì cơ hội và điều kiện vừa nói được đến với anh, tính sân khấu chính quy - chuyên nghiệp, soạn giả hay, đạo diễn giỏi, ê-kíp diễn viên tài danh,...; để anh có được vai Trần Hùng trong "Tìm Lại Cuộc Đời", Thừa trong "Tiếng Hò Sông Hậu" và Thiếu uý Thái Ngọc trong "Khách Sạn Hào Hoa" cũng là vai diễn nổi tiếng được khán giả mến mộ thời đó. Sau đó, Giang Châu rời Sài Gòn 2 về cộng tác cho Sài Gòn 1. Tại đây, anh lại có cơ hội được những nghệ sĩ tài danh giúp đỡ, đặc biệt là sự giúp đỡ của NS Thành Được. Trên sân khấu này, Giang Châu tiếp tục ghi thêm dấu ấn vai diễn để đời, đó là Trùm Sò trong "Nghêu - Sò- Ốc - Hến".
Khi rời sân khấu Sài Gòn 1, anh trở lại Đoàn Cải lương Sài Gòn 3. Trong thời gian này anh có vai Đinh Lý (đúp với NS Vương Ngọc) hát chánh với NS Linh Huệ đã góp phần không nhỏ cho Sài Gòn 3 ăn khách vở "Hạt Bụi Trên Non Cao" . Tiếp đó, NSUT Giang Châu về Đoàn cải lương 2 - 84. Ở đây , tuy bân cạnh "một rừng" nghệ sĩ tài danh nhưng Giang Châu cũng đã thể hiện được bản lãnh ca diễn của mình qua vai Tâm trong "Tô Ánh Nguyệt". Ở sân khấu Tài năng anh có vai Mạnh trong "Tình Mẫu Tử" đã tạo dấu ấn không kém với những vai chánh khác...
Có dạo NSUT Giang Châu về hát cho Đoàn Cải lương sông Hậu, rồi trở về Đoàn Văn Công TP. HCM, cộng tác cho Sân khấu vàng Minh Vương - Lệ Thủy... Nhưng có lẽ những vai diễn sau này không còn tạo được ấn tượng mạnh như ba vai để đời trước đây.
BA HÌNH TƯỢNG CỦA MỘT GIANG CHÂU.
NSUT Giang Châu không chỉ tạo tên tuổi riêng cho mình bằng phong cách ca ngâm, mà anh còn tạo dấu ấn trong diễn xuất thành công, và nói chung ca diễn của anh đã xác lập trong ba hình tượng nhân vật để đời trong nghệt thuật ca kịch - Cải lương của một thời vang bóng. Mặc dù đời sống và số phận của nhân vật đã được tác giả kịch bản và đạo diễn vở diễn định hướng, nhưng Giang Châu là ngưới với tư cách là một nghệ sĩ biểu diễn truyền đạt nội dung tư tưởng đó đến khán giả bằng tài năng tái tạo hình tượng của mình. Nói khác đi, NSUT Giang Châu đã ghi tac ba nhân vật thành ba hình tượng có sức sống đi vào nghệ thuật Cải lương, đó là Trần Hùng trong "Tìm Lại Cuộc Đời", Thừa trong "Tiếng Hò Sông Hậu" và Trùm Sò trong "Nghêu - Sò- Ốc - Hến".
Trước tiên có thể nhận thấy rằng, mỗi vai diễn có một nét riêng về kiểu cách biểu đạt. Vì lẽ, ba vai diễn - ba nhân vật đều có bản chất khác nhau, trong đời sống tâm lý khác nhau, nên NSUT Giang Châu hoá thân vào nhân vật ca diễn cũng khác nhau. Một Trần Hùng từng trải và đã chứng kiến những mưu mô, tội ác của quân đội Mĩ - Ngụy, rồi thức tỉnh để tố cáo chúng; một anh nông dân Thừa đại diện cho những người nông dân chân chất và khẳng khái của người Nam bộ; một Trùm Sò lém lỉnh và thông minh tiêu biểu cho tâm lý hiện thực phê phán...
Ba nhân vật đều có tính cách tiêu biểu cho một góc cạnh hiện thực xã hội của ba giai đoạn lịch sử khác nhau về con người và khát vọng sống của con người vương tới một lý tưởng nhân văn.
NSUT Giang Châu vào vai Trần Hùng, một thương phế binh của lính Ngụy, anh ca diễn thành công ở chỗ tỏ thái độ bất mãn khi đối thoại đấu lý với Đại uý Huy Bình (NSUT Thanh Tuấn); anh gằn giọng những câu thoại và vừa diễn cợt cười chua chát để tỏ thái độ chán ngán của Trần Hùng : "Tao biết mày là con cưng của Mỹ mà,...Mày không tin hả, nó kêu pháo binh dập những thằng thương phế binh như tao cho chết, để tụi nó khỏi phải nuôi..." Về ca, NSUT Giang Châu vốn thiên phú cho làn hơi chất giọng "Đồng pha kim, âm lực mạnh nhờ cao độ, âm giọng vang vang khi ca , vừa rổ rảng như tiếng chuông lại vừa trong thanh khi tiết chế làm hơi giảm bớt "Đồng, nhưng trong chất đồng có lai kim, pha âm hưởng của giọng "Kim" nên khi ca không quá rổn rảng như khi nói.
Thêm vào đó, anh lại được lợi thế làn hơi đầy, khỏe do tố chất sinh học nên khi cần thiết nhấn nhá, ngân nga kéo dài trường độ và cường độ đầy đặn. Điều này được bộc lộ qua 8 câu Xàng xê lớp đầu: "Tao về Sài Gòn tao tìm mái ấm gia đình nhưng hỡi ơi, mái lá hoá tro than vì hỏa hoạn. Nay còn đâu nữa, vợ con không biết sống chết ra sao nên tao mới lê lếch tấm thân...què, đi khắp vùng nội - ngoại ô để tìm cho ra vợ con khốn khổ...
Nhưng tao thấy rõ ràng, vợ tao vừa bước xuống xe, cặp tay với một thằng Mỹ ung dung đi vào cư xá sĩ quan...", anh nhấn các trọng âm chính nhịp và gằn giọng để biểu đạt nội tâm đang bức xúc như để lên án những tên Mỹ và trách sự lầm đường lạc lối của Hương (vợ Trần Hùng vai của NS Ngọc Bích). Đây có thể nói là một trong những lớp hay trong vở, NSUT Giang Châu ca đoạn này, xuống "xừ " của Xàng xê là khán giả vỗ tay rần lên, hầu hết những xuất diễn lúc đó đều như vậy.
Kế đó là lớp Trần Hùng tâm sự với Hương, anh lên câu Vọng cổ hơi dài khá điêu luyện, tức ca hơi dài do đủ lực trường độ nhấn nhá biểu đạt ca từ đâu ra đó khác với kiểu ca tụng. Lối ca Vọng cổ hơi dài này của Giang Châu rất ấn tượng, thể hiện được nghệ thuật ca diễn chứ không như chỉ phô diễn riêng làn hơi chất giọng. Có nghĩa là anh vừa tâm sự, oán than, trách móc sự nghiệt ngã của hoàn cảnh trớ trêu cho anh và Hương: "Hương ơi, anh nào muốn giết em đâu, máu em đổ tại vì em theo loài lang sói thì thử hỏi anh có thể nào tách rời những mảnh thép vô tri để cho nó tự đâm thủng trái tim bạo ác tham...tàn...", đôi mắt anh lúc thì sầu thảm, lúc lại ánh lên sự giận dỗi đôi môi cùng rung lên tỏ ra sự căm tức vì bị kẻ bạo quyền cướp vợ lại xưng là "quan thầy" của mình; mặt khác thì hận vợ phụ tình...
Khi ca diễn lớp này, lúc nào NSUT Giang Châu cũng được khán giả không bao giờ quên tặng cho anh một tràng pháo tay giòn giã. Hai lớp ca diễn này, NSUT Giang Châu còn để lại ảnh hưởng cho nhiều diễn viên không chuyên trong phong trào VNQC một thời ca diễn theo phong cách này của anh và kgán giả một thời không quên, nên Trần Hùng của Giang Châu "sống đời" là vậy.
Còn Thừa là hình ảnh tiêu biểu của nông dân ở miên Tây Nam bộ, từ dáng đi tướng đứng, vấn khăn rằn rồi ngậm điếu thuốc rê như bản "sao" của một lão nông Nam bộ. Lối diễn của Giang Châu "bốc" hơn trong thoại đối đáp với hội đồng Dư, anh bộc lộ thẳng tính, vừa láu lỉnh kiểu cười cợt nói theo giọng điệu móc họng Hội đồng Dư. NSUT Giang Châu làm nổi bật tính cách nhân vật, những nét đặc trưng bản chất anh nông dân được miêu tả trung thực rất gần gui với những hình ảnh cuộc sống ở đời thường, dù bối cảnh kịch đã xảy ra từ khá lâu nhưng ai cũng có thể cảm nhận được nhân vật qua Giang Châu. Có lẽ ca diễn của anh hay nhất là lớp ca thể điệu Ngựa Ô Bắc và Kim Tiền Bản.
Vốn chất giọng "Đồng pha" đã khiến âm giọng rổn rảng khi ca nghe hùng hồn, xôm tựu, ăm lực đầy đặn khi nhấn những trọng âm nhịp chính, nên tiếng ca trở nên sôi động và kịch tính hơn. Trongtình huống này, NSUT Giang Châu tổng hoà cả các yếu tố của ca diễn; diễn thì kết hợp ngoại hình với nét mặt (môi, mắt), các nét chuyển động theo trạng thái từng lúc của nhân vật; ca kết hợp vừa nói vừa ca nhưng vẫn chuẩn hơi đệiu nhịp nhàng, ngữ điệu lên cao, xuống thấp cũng theo tâm lý biểu diễn... Điều này anh thể hiện rất rõ qua đối đáp với Hội dồng Dư.
Tuy là ngôn từ của nhân vật là do tác giả kịch bản sáng tạo, nhưng vai diễn dường như thể hiện đúng với ý đồ của tác giả và đạo diễn, đó là kỷ thuật vừa ca ngâm vừa biểu đạt tâm trạng mà kịch tính đã gợi lên cho vai diễn bộc lộ. Ngay lối phát âm nhấn nhá, gằn giọng gọi là nhấn trọng âm ở nhịp chính...tất cả toát lên chất của một anh nông dân rặt của vùng Nam bộ.
Đến vai Trùm Sò của NSUT Giang Châu, từ sự kiện khi anh về Sài Gòn 1, lúc đó Đoàn đang khan hiếm kịch bản nên dựng lại kịch bản kinh điển. Đầu tiên là các diễn viên phải dựa theo khuôn mẵu trước đây mà các nghệ sĩ tài danh diễn vở này.
Khi ra Cam Ranh diễn "Nghêu - Sò - Ốc - Hến", NSUT Giang Châu diễn, khán giả không cười nên sáng hôm sau anh cùng NSUT Thanh Điền - Thanh Kim Huệ ngồi bàn lại, xin ý kiến các nghệ sĩ diễn những vai trước đó và đạo diễn là NSND Ba Vân cho phép Giang Châu sáng tạo thêm vài nét hài và được các vị đồng ý để vì doanh thu. Nhân vật Trùm Sò có lợi thế là vai diễn chứ không phải vai ca, nên NSUT Giang Châu khai thác tối đa lối diễn, dựa vào bản chất nhân vật dân gian nên khai thác chất hài là phù hợp hơn. Anh sáng tạo cách nói lối lạ lạ khi Trùm Sò bị quan cho lính đánh: "Thân Sò bây giờ như trái dưa gan chín rục, đổ hột, nức da,..."rồi khóc tiếng khóc giống như tiếng đờn Cò, lại có lúc giống như tiếng kèn lá,... làm cho quan phải ngạc nhiên bảo là Sò đi hầu toà mà dẫn theo con nhỏ...
Đây là lớp đòi hỏi diễn xuất bằng tính cách, bộc lộ qua tài năng của vai diễn mà diễn viên nhập vào vai. Có lẽ, lớp diễn này khán giả rất thích thú lối sáng tạo mới của NSUT Giang Châu. Cho đến sau này, anh đi hát show ở các đám tiệc là khán giả không gọi đích danh mà thường gọi anh là "Trùm Sò", một số đồng nghiệp cũng gọi thế. Nghĩa là cách gọi đó cũng khẳng định sự thành công của anh, tên tuổi đã gắn liền với hình tượng nhân vật.