ẢNH CHÂN DUNG ĐẸP
CHÀO MỪNG BẠN ĐẾN NHÀ CỦA NS PHƯỢNG MAI
Tiểu sử :
Họ và tên : Trương Thị Bích Phượng
Ngày sinh : 29-10-1956
Các đoàn đã tham gia cộng tác :
- Năm 1961 - 1963 : tham gia đoàn kịch Kim Cương
- Năm 1964 : học tân nhạc và cổ nhạc với các thầy Bảo Thu , Tư Tân , Minh Tơ , Khánh Hồng , Phùng Há ,...
- Năm 1965 : hát cho đoàn Minh Tơ .
- Năm 1969 : tham gia Chương trình thiếu nhi " Hoa Thế Hệ ", đoàn Dạ Lý Hương -Hùng Cường
- Năm 1970 : hát cho Tân Thủ Đô - Tấn Tài
- Sau 1970 :
+ Về đoàn Kim Chưởng và được má bầu Kim Chưởng huấn luyện
+ Hoàng Thi Thơ, Ngọc Đức mời về trình diễn ở 1 số vũ trường
+ Được thầy người Tàu là nhạc sĩ Vi Bảo La dạy hát tiếng Quan Thoại để trình diễn
+ Về đoàn Dạ Lý Hương và được Hùng Cường nhận làm con nuôi , theo Hùng Cường trình diễn trong chương trình " Biệt Động Quân Sư Đoàn 5 " , chương trình " Tâm Lý Chiến Hoa Tình Thương " của Duy Khánh và Nhật Trường và 1 số chương trình khác ,...
+ Được nữ ca sĩ của đài phát thanh là Hoàng Oanh dạy cho cách ngâm thơ .
- Năm 1972 - 1975 : chính thức trở thành đào chính của đoàn Hà Triều - Hoa Phượng , đoàn Sơn Minh , Minh Tơ , Tân Kim Mai .
- Năm 1975 - 1979 : cộng tác với các đoàn Minh Tơ ,Huỳnh Long , Dạ Lý Hương , Mộng Tuyền , Trúc Giang .
- Năm 1979 : ra hải ngoại
- Năm 1981 - 1989 : cộng tác với trung tâm Thúy Nga trên lĩnh vực tân nhạc , ngoài ra còn hợp tác với các trung tâm Giáng Ngọc , Thúy Anh, Phượng Hoàng và Làng Văn ,...
- Năm 1992 - 2001 : được mời thu hình cho các tuồng cải lương ở Việt Nam .
- Năm 2001 đến nay : vẫn đi show và thu hình cho 1 số trung tâm ...
-
Những giải thưởng :
- Trước 1975 được phong tặng danh hiệu Siêu thần đồng Tiểu Lăng Ba
- Sau khi ra hải ngoại được phong tặng danh hiệu Nữ hoàng Hồ Quảng
Những bài hát, vai diễn nổi tiếng:
- Tân nhạc : Đêm chôn dầu vượt biển , Chiều Tây Đô , Sắc hoa màu nhớ , Nỗi buồn Châu Pha ,...
- Các vai diễn : Lương Sơn Bá , Chúc Anh Đài - Lương Sơn Bá Chúc Anh Đài , Mã Siêu - Mã Siêu báo gia cừu , Na Tra - Na Tra lóc thịt , Hoa Mộc Lan - Hoa Mộc Lan , Tấm - Tấm Cám , Lưu Kim Đính - Lưu Kim Đính giải giá Thọ Châu , Triệu Tử Long - Về đất Kinh Châu , Đào Tam Xuân - Đào Tam Xuân báo gia cừu ,...
Gia đình riêng:
Sau khi kết hôn thì có 2 người con là 1 gái và 1 trai . Hiện tại đang sống với ký giả Trần Nhật Phong
Với nguyện vọng tổ chức một suất hát đặc biệt góp phần với nhà hát Trần Hữu Trang gây quỹ từ thiện giúp nghệ sĩ già neo đơn. Ngày 27.7 vừa qua, nghệ sĩ hải ngoại Phượng Mai đã tổ chức chương trình chuyên đề sân khấu: Nối vòng tay lớn lần 6 - Phượng Mai: Những vai diễn ấn tượng. Chương trình diễn ra tại rạp Hưng Đạo, thu hút đông đảo khán giả.
Đã hơn 10 lần về quê hương, nghệ sĩ Phượng Mai luôn để lại những tình cảm đẹp trong bạn bè, đồng nghiệp về sự khiêm tốn đáng quý của chị. Đối với khán giả yêu sân khấu cải lương tuồng cổ, ai cũng biết nghệ sĩ Phượng Mai có biệt danh Tiểu Lăng Ba. Thời đó, khi vừa lên 9 tuổi, Phượng Mai đã được bà bầu Cao Long Ngà cho lên sân khấu tham gia biểu diễn. Lớn lên, chị gia nhập ban Hoa Thế Hệ, nhanh chóng chứng tỏ khả năng thể hiện những vai đào võ và giả trai nổi tiếng.
Các vai diễn Phượng Mai chọn thể hiện trong đêm 27.7 vừa qua đều là điểm son nổi bật trong sự nghiệp nghệ thuật của chị, như Lương Sơn Bá – Chúc Anh Đài, Triệu Tử nhập Cam Lộ Tự (Về đất Kinh Châu), Đào Tam Xuân đề cờ... Các nghệ sĩ đồng nghiệp như: Thanh Thanh Tâm, Bạch Mai, Ngọc Đáng, Thoại Mỹ, Kim Tử Long, Kim Tiểu Long, Trường Sơn, Trinh Trinh, Tuấn Sang, Bình Tinh... Soạn giả Hoàng Song Việt, nghệ sĩ Hữu Quốc... đã hỗ trợ chị rất nhiều để thực hiện chương trình này. Thật ra, đây không phải lần đầu tiên Phượng Mai tổ chức chương trình văn nghệ từ thiện. Năm 1997, khi về nước tham dự chương trình sân khấu cứu trợ đồng bào các tỉnh miền Nam, nạn nhân của cơn bão số 5, Phượng Mai đã xuất hiện trên sân khấu rạp Hưng Đạo diễn vai Đào Tam Xuân và Lưu Kim Đính trong chương trình gây quỹ cho Hội Nghệ sĩ.
Sang Đức theo chồng định cư từ năm 1979, nhưng Phượng Mai đã không từ bỏ được niềm đam mê sân khấu, dù ở xứ người không có đất dành cho bộ môn cải lương hoạt động, chị chuyển sang lĩnh vực ca nhạc, chọn dòng nhạc mang âm hưởng dân ca để có thể tiếp tục gắn bó với nghề, thỉnh thoảng chị đứng ra tổ chức biểu diễn những vở cải lương tuồng cổ để phục vụ đồng hương. Khi thị trường băng video cải lương trong nước phát triển, chị là người đầu tiên về nước xin phép Bộ VHTT dàn dựng nhiều băng video cải lương tuồng cổ để phát hành ra nước ngoài, phục vụ bà con kiều bào. Nghệ sĩ Phượng Mai tâm sự: “Tôi rất biết ơn các chú, các bác và bạn bè đồng nghiệp đã giúp tôi hoàn thành nguyện vọng tổ chức suất hát từ thiện ủng hộ nghệ sĩ nghèo, đây chính là cơ hội để nghệ sĩ chúng tôi đền đáp công ơn dìu dắt của các thầy cô và tình cảm thương yêu của khán giả”.
Bài báo này được đăng trên báo Đất Mũi Cuối Tuần số 254 phát hành vào ngày 28 tháng 7 năm 2005
Ðọc cái đề tựa, chắc mấy người bạn của tôi sẽ cười hê hê mà thốt lên rằng: “Quái! Gã Bắc Kỳ hôm nay ăn phải cái giống gì mà định làm trò hề thế này! Dân Hà Nội từ trong trứng mà biết gì về cải lương Hồ Quảng, là ngón văn nghệ rặt Nam Kỳ! Này, nếu định lăm le ngồi vào chiếu văn nghệ thì tập tễnh viết về tuồng, chèo, trống quân, quan họ... may ra còn được. Ðừng có giễu dở nữa, ra ngoài chơi cho người ta có chỗ hát... cải lương Hồ Quảng!”
Nói thế tức là bạn hổng biết gì về tôi ráo trọi! Theo bố mẹ di cư vào Nam năm 1954 và bắt đầu thích giọng nói, câu hò, điệu hát của bà con miền Nam. Về sau khi lên học đại học Văn Khoa Sài Gòn, tôi cứ tò tò đi theo một anh bạn người miền Nam, chỉ vì trong buổi ăn Tết của lớp Văn Chương Quốc Âm, anh ta hát vọng cổ nghe mùi rệu! Tôi đi theo xin anh ta chỉ cho tôi ca vọng cổ. Anh ta tận tình chỉ dẫn, nhưng tôi vẫn ca vọng cổ giọng... Hà Nội, nghe tức cười muốn chết!
Ca vọng cổ không được, nhưng tôi thưởng thức được vọng cổ. Những cô đào thương Kim Chung, Thanh Nga; những kép độc Huỳnh Thái, Ngọc Toàn là thần tượng “ngày xưa còn bé” của tôi. Chưa hết, lâu lâu có đoàn hát bội ở đâu không biết, đến đền Phú Thạnh trong xóm Vườn Chuối nhà tôi mà đóng tuồng, tôi cũng chen vào ngồi xúm xít bên cạnh mấy đứa bạn nhi đồng con trai con gái trong xóm, ngẩn ngơ mà nghe đào kép diễn tuồng, hò hét tưng bừng trên sân khấu. Có một lần tôi được chị cho trái thị. Tôi bỏ trong túi rồi vào đình coi Hát Bội. Con nhỏ bạn hàng xóm lôi tôi ra, nó nói rằng: “Mầy đem trái thị vô đây, đào kép hát không được! Ðem ra!” Tôi hỏi nó tại sao đem thị vô rạp thì đào kép không hát được, nó trả lời ngon ơ: “Tao hổng biết! Má tao biểu dzậy!” Cho đến bây giờ tôi vẫn không biết tại sao đem thị vô rạp thì khiến cho đào kép không hát được!
Có lần tôi đã chia sẻ với bạn đọc: trên đời này có ba loại nghệ sĩ, nghệ sĩ sáng tác, nghệ sĩ trình diễn và nghệ sĩ thưởng ngoạn. Tôi không làm được hai thứ nghệ sĩ trên, thì làm nghệ sĩ thưởng ngoạn. Cũng thú chán!
Mà đừng tưởng làm nghệ sĩ thưởng ngoạn thì dễ. Không đâu! Mình phải có chút kiến thức về cái bộ môn nghệ thuật đó, cuộc thưởng ngoạn mới thấm thía, mới đem lại cho mình cái khoái cảm tuyệt vời. Cách đây mấy năm, nữ nghệ sĩ Ngọc Bày, một viễn viên và hướng dẫn viên hát bội hiếm hoi còn sót lại, có buổi nói chuyện và trình diễn ở khoa nghệ thuật, đại học UCLA. Nghệ sĩ Ngọc Bày không hát bội bằng tiếng Anh (!)cũng như không diễn giải bằng tiếng Anh, nên khoa Ngôn Ngữ và Văn Hóa Ðông Á gởi tôi sang để thông dịch. Tuy gọi là “dịch,” song le mình phải diễn giải thêm nhiều để các giáo sư, quan khách và sinh viên Mỹ hiểu cái ý niệm về hát bội thì họ mới thưởng thức được cái tài của nghệ sĩ Ngọc Bày. Thế là chuyện này khiến tôi mất biết bao nhiêu thì giờ! Một mặt tiếp xúc với cô Ngọc Bày, một mặt tìm sách vở, tài liệu về hát bội để tìm hiểu trước khi diễn giải cho người ta. Mất công, nhưng mình thu được một số kiến thức. Từ buổi ấy, tôi hiểu bộ môn hát bội hơn, trân trọng nó hơn, và mỗi khi được xem hát bội thì thích thú hơn nhiều.
Chuyện tìm hiểu một bộ môn nghệ thuật miền Nam lại xảy ra một lần nữa, khi mới đây tôi tình cờ đọc cái quảng cáo về tuồng cải lương Hồ Quảng “Hán Sở Tranh Hùng,” sắp được nữ nghệ sĩ Phượng Mai và các bạn trình diễn. Trang quảng cáo khiến tôi động lòng tham! Ðã biết chút ít về vọng cổ và cải lương, chút ít về hát bội, tại sao mình không tìm cách để có thêm chút ít hiểu biết về cải lương Hồ Quảng nhỉ?
Thế là tôi hỏi bạn bè, tìm ra điện thoại của cặp nghệ sĩ Phượng Mai-Trần Nhật Phong. Ðây là cái “kho kiến thức” về cải lương Hồ Quảng để mình khai khác. Tôi cũng tìm những nguồn tài liệu (rất hiếm hoi) để bù đắp thêm cho sự hiểu biết của mình. Hôm nay tôi đem cái mình biết được ra để chuyện trò với các bạn, nhất là các bạn Bắc Kỳ! Chắc là còn nhiều thiếu sót, nhưng biết gì nói nấy. Biết đâu vì bài viết thiếu sót này, các tay cải lương Hồ Quảng “nhà nòi” xuất hiện, chỉ giáo thêm cho thì mình lại có cơ hội học thêm.
Cải lương Hồ Quảng nghĩa là gì?
Cải lương thì chắc quý bạn đã biết rồi. Ðó là một lối hát tuồng cách tân, phối hợp giữa đối thoại bằng giọng bình thường với những ca điệu truyền thống miền Nam, trong đó chủ yếu là vọng cổ. Khi nói tuồng cải lương là người ta thường nghĩ đến những tuồng tích mang tính chất xã hội, như “Tình Anh Bán Chiếu,” “Ðời Cô Lựu,” hoặc mang tính chất dã sử, như “Sầu Lên Ngọn Cỏ,” “Tiếng Trống Mê Linh”...
Sự thật, có ba loại tuồng cải lương: xã hội, dã sử và Hồ Quảng. Tự Ðiển Mở Wiki gọi “cải lương Hồ Quảng” bằng một tên nữa là “cải lương tuồng cổ.” Cái tên này giúp người ta hiểu được tổng quát về nội dung của loại hình nghệ thuật trình diễn này. “Cải lương Hồ Quảng” cũng là cải lương, nhưng tuồng tích dựa vào những tuồng cổ, mà thường là tuồng cổ Trung Hoa. Có người nói rằng chữ “Hồ Quảng” là do chữ “tuồng cổ” nói lái mà thành. Nhưng “tuồng cổ” mà lái thành “hồ quảng” thì coi bộ cái “lái” này nghe khá gượng ép!
Nghệ sĩ Phượng Mai thì giải thích rằng: “‘Quảng’ đây là ‘Quảng Ðông’ (Quảng Nam, Quảng Ngãi, Quảng Trị... không có ăn nhậu gì trong cái “Quảng” này!) Tại sao lại Quảng Ðông mà không phải là những ‘Quảng’ kia? Thưa, vì tuồng cải lương Hồ Quảng chịu ảnh hưởng rất lớn của tuồng kịch truyền thống miền Quảng Ðông.”
Thế còn Hồ? Không lẽ ông... Hồ Quý Ly có liên quan đến cải lương Hồ Quảng? Ðương nhiên là không rồi. Cũng theo nghệ sĩ Phượng Mai thì “Hồ” là biến âm của “hò,” nghĩa là những điệu ca tiếng hát. “Hồ Quảng” là điệu ca tiếng hát miền Quảng Ðông. Giải thích chữ “Hồ Quảng” theo cách của nghệ sĩ Phượng Mai có vẻ lọt tai hơn.
Ảnh hưởng qua lại giữa bốn quốc gia “đồng văn” (chia sẻ một số quan niệm văn hóa) khiến cho Việt Nam chịu khá nhiều ảnh hưởng Trung Hoa trong ngôn ngữ, văn chương, nghệ thuật. Ðiểm đặc biệt là khi các truyện tích Trung Hoa được các văn sĩ, thi sĩ, nghệ sĩ Việt Nam thuật lại hay diễn lại, nó mang tính chất nghệ thuật rất độc đáo của Việt Nam, mà truyện tích khi ấy chỉ là cái cơ hội để người nghệ sĩ Việt Nam diễn tả cái hay, cái đẹp, cái tuyệt diệu của ngôn ngữ, ý tưởng, tâm tình Việt Nam. Cụ Nguyễn Du nói chuyện đời cô Vương Thúy Kiều quê ở Bắc Kinh, mà người đọc luôn luôn có cảm giác cô là người Việt Nam. Cả những Kim Trọng, Thúc Sinh, Từ Hải, Sở Khanh, Tú Bà... đều trở thành người Việt Nam sống với tâm tình và cách xử thế Việt Nam tuốt. Ma Ðạm Tiên cũng thành ma Việt Nam luôn! Chuyện này cũng xảy ra (tuy với mức độ thấp hơn) nơi các nghệ sĩ Việt Nam diễn tuồng cải lương Hồ Quảng.
Nguồn gốc cải lương Hồ Quảng Việt Nam như thế nào?
Ðây là một loại hình nghệ thuật phối hợp giữa ba loại nghệ thuật vốn có từ trước: cải lương, tuồng kịch Bắc Kinh và tuồng kịch Quảng Ðông.
Cuối thập niên 1940 sang đầu thập niên 1950, những nghệ sĩ Phùng Há, Cao Long Ngà, Năm Phỉ có dịp sang Quảng Ðông học hỏi cách nhảy múa (tiếng nhà nghề là “vũ đạo”) của các nghệ sĩ trình diễn tuồng kịch truyền thống ở đây. Các nghệ sĩ này khi về nước, đem áp dụng “vũ đạo” này trên sân khấu, thấy thành công. Giữa thập niên 1950 sang đầu thập niên 1960 (thời kỳ chuyển tiếp giữa cựu hoàng Bảo Ðại và nền Ðệ Nhất Cộng Hòa do Tổng Thống Ngô Ðình Diệm lãnh đạo), các nghệ sĩ Khánh Hồng, Bảy Huỳnh và Minh Tơ lần mò vào Chợ Lớn, tìm đến những gánh hát người Hoa, mua lại một số trang phục sân khấu của họ. Những trang phục này rất rực rỡ, mặc vào, lên sân khấu là đào, kép nổi bật, làm cho sân khấu cũng rực rỡ theo. Hai nghệ sĩ này cũng học hỏi từ các gánh hát người Hoa nhịp điệu trống, bắt nguồn từ cách diễn tuồng của phái Bắc Kinh. Tiếng trống rộn rã giúp cho buổi trình diễn thêm tưng bừng náo nhiệt. Tiếng trống còn có tác dụng thay đổi tâm tình khách xem trình diễn, tùy theo nhịp điệu nhanh, chậm, cách ngắt quãng của nó. Các nghệ sĩ cũng học một số cách hát theo điệu Quảng Ðông.
Trở về sân khấu Việt Nam, các nghệ sĩ Khánh Hồng, Bảy Huỳnh, Minh Tơ (sau thế hệ Phùng Há, Cao Long Ngà, Năm Phỉ) pha điệu hát Hồ Quảng vào các tuồng cải lương. Về sau, khi khán giả có vẻ chấp nhận, cải lương Hồ Quảng trở thành một bộ môn riêng, với nhịp trống, điệu hát và y trang Bắc Kinh, Quảng Ðông, phối hợp với cách hát cải lương và ca vọng cổ. Cải lương Hồ Quảng có nhiều ưu thế trên sân khấu. Về y trang rực rỡ và cách diễn bằng “biểu tượng” thì không thua gì hát bội, nhưng hát bội lại khó nghe, khó hiểu, trong khi đào kép trong cải lương Hồ Quảng thì nói ít, diễn nhiều, khi hát thì hát theo lối vọng cổ và một số làn điệu của cải lương rất dễ nghe, có hát theo điệu Quảng Ðông thì điệu ấy nghe cũng lọt tai. Ðặc biệt, cải lương Hồ Quảng lại có “vũ đạo,” tức là cách đưa tay, đá chân theo nhịp điệu như múa, mà là múa võ, nên gây hào hứng trên sân khấu. Khán giả thường có thể không biết rõ, nhưng con nhà võ ngồi thưởng thức đào, kép sử dụng “vũ đạo” đều biết được đào, kép ấy trình độ tới đâu.
Cũng trong thập niên 1960, có phong trào phim Ðài Loan du nhập Việt Nam qua những bộ phim của hãng sản xuất Show Brothers với loại nhạc Ðài Loan. Những phim này cũng làm khán giả Việt Nam say mê. Một số âm điệu nhạc Ðài Loan liền được đưa vào sân khấu cải lương. Lúc ấy tuồng cải lương Hồ Quảng có vẻ... hồ quảng lắm rồi! Nghĩa là vì các điệu hát lẫn lộn lung tung, nó phát triển, nhưng hầu như không định hướng, không có hệ thống. Rất may khi ấy có một nhân vật đặc biệt xuất hiện, đó là ông Hoàng Hầu Bình (giới sân khấu gọi ông là ông Há Thầu). Ông này vốn là một kép chánh trong sân khấu Hồng Kông, sau lớn tuổi, sang Việt Nam, đánh đàn cho đoàn Minh Tơ-Khánh Hồng. Ông Hoàng Hầu Bình sau về đầu quân đoàn Huỳnh Long và có công hệ thống hóa các bài hát theo từng loại: Bắc Phái (Bắc Kinh), Quảng Ðông, Ðài Loan... Ðoàn Huỳnh Long khi diễn tuồng cải lương Hồ Quảng thì nghiêng về khuynh hướng Bắc Kinh, chủ yếu về “vũ đạo” và nhịp trống; còn đoàn Khánh Hồng thì có khuynh hướng Quảng Ðông, để ý hơn đến điệu hát. Dàn nhạc của khuynh hướng Bắc Kinh cũng khác dàn nhạc của khuynh hướng Quảng Ðông. Trong khi dàn nhạc khuynh hướng Bắc Kinh đồ sộ và cồng kềnh giống như một dàn “orchestra” Tây Phương thì dàn nhạc khuynh hướng Quảng Ðông gọn nhẹ với năm, bảy nhạc khí cổ truyền. Cách hóa trang của hai bên cũng khác nhau: sân khấu Bắc Kinh tô vẽ mặt đào, kép với những nét trắng, đỏ, đen biểu tượng khiến cho khuôn mặt “sân khấu” khác hẳn khuôn mặt đời thường. Sân khấu Quảng Ðông giữ khuôn mặt đẹp tự nhiên của đào kép, chỉ tô son, thoa phấn cho đẹp hơn thôi.
Tính theo thế hệ thì những nghệ sĩ lão thành Năm Phỉ, Phùng Há, Cao Long Ngà là thế hệ thứ nhất. Cho đến nữ nghệ sĩ Phượng Mai thì đã là thế hệ thứ năm rồi. Tuy các thế hệ có nối tiếp nhau để phát triển bộ môn, nhưng đặc thù của cải lương Hồ Quảng cho đến nay vẫn được gìn giữ.
Có thể nói đây là một bộ môn nghệ thuật sân khấu Việt Nam có một nguồn gốc khác phức tạp: cải lương, hát bội, sân khấu Bắc Kinh, sân khấu Quảng Ðông, nhạc Việt Nam truyền thống, nhạc Ðài Loan, võ thuật Bắc Phái... Tuy nhiên, qua cách trình diễn của các nghệ sĩ Việt Nam, tất cả các loại hình nghệ thuật này phối hợp nhuần nhuyễn với nhau, tạo thành một sắc thái riêng. Khán giả thưởng thức một vở tuồng diễn theo lối cải lương Hồ Quảng nhìn thấy ngay là nó rất Việt Nam, không lẫn với ca kịch Trung Hoa được. Ðó là cái tài của người nghệ sĩ, mà đó cũng là cái đặc thù của văn hóa Việt Nam, đón nhận cái của người, nhưng biến hóa nó, thăng tiến nó để nó hay hơn, đẹp hơn mà lại có tính chất Việt Nam.
Ít hôm nữa thôi, khách mộ điệu sẽ được thưởng thức tài diễn xuất của nữ nghệ sĩ Phượng Mai cũng như các diễn viên khác trong vở “Hán Sở Tranh Hùng.” Khi ấy, chúng ta sẽ thấy tuồng tích thì của Trung Hoa, nhưng các diễn viên khi trổ tài nghệ thì lại rất Việt Nam.
Đêm tưởng niệm NSND Phùng Há tại Mỹ
23/07/2009 23:53
Lễ tưởng niệm được tổ chức vào đêm 18.7 tại Star Performing Arts Center, thuộc Little Saigon, miền Nam California (Mỹ). Chủ đề đêm tưởng niệm là Bách niên tổ nghiệp với gần 500 khán giả tham dự.
Hơn 50 nghệ sĩ đã tham gia trình diễn những trích đoạn cải lương một thời mà vị nghệ sĩ tiền bối Phùng Há từng ghi dấu ấn. Nhiều nghệ sĩ đã bật khóc khi tâm tình, kể về những dịp sinh hoạt, làm việc chung với người được xem là vị "Tổ sống" của cải lương Việt Nam.
Sự cống hiến của bà được cô đọng trong 10 phút trình chiếu cuốn phim cuộc đời nghệ sĩ Phùng Há do Hãng phim Phương Nam thực hiện cách đây nhiều năm. Các trích đoạn từng được nghệ sĩ Phùng Há trình diễn như Vương Thúy Kiều, An Lộc Sơn và Tô Ánh Nguyệt đã được thể hiện lại qua phần trình diễn của Lê Tín, Tuấn Châu, Bình Trang, Phượng Dung, Liên Thảo, Hữu Nghĩa, Ngọc Đáng, Tuấn Phong, Minh Hùng, Thu Hồng, Hoài Trúc Linh... Ngoài ra, soạn giả Yên Lang cũng viết một liên khúc cổ nhạc để nói lên cuộc đời và sự nghiệp của nghệ sĩ Phùng Há.
Phần chính của chương trình là hai trích đoạn trong các vở tuồng để đời của nghệ sĩ Phùng Há: Đời Cô Lựu và Phụng Nghi Đình. Đời Cô Lựu với nghệ sĩ Phượng Liên, Bảo Quốc và Hồng Loan. Cả ba đều xuất thần khi diễn lại trích đoạn này. Trích đoạn vở Phụng Nghi Đình với Phượng Mai trong vai Lữ Bố, và Xuân Mỹ trong vai Điêu Thuyền đã khiến khán giả rơi lệ khi Phượng Mai diễn với hình ảnh sống động của nghệ sĩ Phùng Há được chiếu trên màn ảnh cũng trong vai Lữ Bố diễn cùng với cố nghệ sĩ Thanh Nga.
Theo lời của M.C Trần Nhật Phong, nghệ sĩ Phùng Há đã thực hiện được 3 việc to lớn. Đó là xây một nghĩa trang cho nghệ sĩ an nghỉ, một nhà dưỡng lão cho nghệ sĩ khi về già, và một ngôi chùa cho nghệ sĩ gửi gắm tâm linh. Tuy nhiên, điều mà bà chưa thực hiện được là làm sao cho con cái của những nghệ sĩ nghèo và hậu đài có cơ hội đi ăn học. Do đó, số tiền quyên góp được trong lễ tưởng niệm lần này sẽ được gửi về để thực hiện ý nguyện của bà.
Má tôi - nghệ sĩ lão thành Cao Long Ngà
( Báo SK )
Dường như mỗi người sinh ra trên đời đều được sắp sẵn 1 phần số ? Là người theo đạo Phật nên Phượng Mai vẫn luôn tin vào những điều có thể gọi là kỳ duyên .
Gia đình Phượng Mai theo nghề hát từ rất lâu đời . Mai là thế hệ thứ năm . Tính ra Mai và NSUT Kim Cương có chút quan hệ vì ông cậu của Mai là chú ruột của dì Kim Cương . Hồi Mai 5 tuổi , được quay phim Ảo Ảnh thì má Kim Cương đã dồi phấn , mua áo đầm cho Mai ...Đó chính là dấu ấn đầu tiên trong đời , tạo điều kiện cho Mai có mối kỳ duyên với nghệ thuật . Từ thuở ấy , Mai cứ mê mải với những nhân vật trên màn ảnh. Mê nhứt là tài danh Lăng Ba ( Trung Quốc ) đóng trong các bộ phim võ hiệp màu sắc . Chính vì thế , sau đó khi xuất hiện trên sân khấu , Mai đã được giới báo chí tặng danh hiệu là Tiểu Lăng Ba .
Vào nghề hát , Mai được nhiều người yêu thương chăm chút . Mai gọi là thầy thì có rất nhiếu , bên tuồng cổ có NS Minh Tơ,NS Mười Vàng , thầy Tàu có Há Thầu , chú Long ,... Nhưng người gây ấn tượng nhất , dạy Mai từ vũ ạo đến diễn xuất là NS Minh Tơ . Chính ông đã tin tưởng và khuyến khích Mai , chỉ dạy Mai những vai diễn khó . Công ơn của ông đối với lớp trẻ , trong đó có Mai , không bao giờ Mai quên được .
Tuy nhiên , người có ảnh hưởng lớn nhất đối với Mai không chỉ về nghề hát mà còn về đạo đức người nghệ sĩ chính là bà c ruột của Mai - NS lão thành Cao Long Ngà . Bà cô nuôi dưỡng mấy chị em Mai từ nhỏ nên Mai kêu là má . Báo chí thời xưa gọi má là NS tiên phong , Người cũng là nghệ sĩ Việt Nam đầu tiên ra nước ngoài biểu diễn . Đó là người khai sinh nghề hát cho Mai .
Theo má hát từ năm 7 , 8 tuổi , biết bao kỷ niệm vui buồn . Bỗng dưng được hỏi thì lại không tài nào nhớ nổi . Những điều , những chuyện tưởng cỏn con nhưng đã góp lại thành một thuổi thơ đầy ắp những âm thanh của sân khấu muôn màu .
Mai còn nhớ hồi 8 tuổi diễn vở Na Tra lóc thịt , vì ham chơi ỷ y , ra sân khấu Mai bỗng quên 1 câu tuồng . Mai mất hết tinh thần nên diễn không được lớp đánh với thái tử thủy cung ...Vãn hát , vừa bước lên xe Mai đã ăn ... đòn . Mai sợ đến vừa run lẩy bẩy vừa xin lỗi má và hứa sẽ cố gắng . Má rất ít khi đánh Mai vì có lẽ từ nhỏ Mai đã là một con bé ngoan (?). Những buổi hát Mai được nhiều người vỗ tay tán thưởng thì khi vô cánh gà , má cho Mai một trái táo , một quả cam... với lời khen :" Con diễn được !" Má không bao giờ khen Mai hơn lời nói đó . Mai biết má sợ Mai ỷ lại , coi thường người khác ,...
Má rất nghiêm khắc đối với những sai lệch về đạo đức và không biết trân trọng nghề hát . Lời má dạy Mai còn nhớ mãi " nghề hát lúc nào cũng phải học , học đến chết thì thôi ". Và chính bản thân má là một minh chứng cho điều đó . Từ khi còn nhỏ xíu , má đã cho Mai biết nghệ thuật là vô cùng . Cho đến khi Mai lập gia đình , có con , không gần gũi má như trước nhưng má vẫn thường nhắc nhở Mai phải rèn tập , không được buông lơi nghề ... Má dạy Mai rất kỹ , từ lời ăn tiếng nói . Khi thành danh , những dịp tiếp xúc với người ngoài hay báo chí , má thường ...đảm nhiệm giúp Mai.
...Rồi Mai ra nước ngoài , tin tức với má chỉ qua thư từ . Năm 1982 má mất , Mai không về được . Chỉ ngậm ngùi tiếc thương má , vọng về cố hương lời vấn an cuối cùng với má - người đã dìu Mai đi suốt một đoạn đường nghệ thuật và cho Mai hiểu , đời đi hát nên sống như thế nào cho người ta thương và nể trọng .