Bạn nói thêm về chữ đàn LIU đài? Chữ đàn này tôi mới nghe lần đầu.
Xin cảm ơn.
Cái này liên quan đến nhạc sử.
Cổ nhạc tài tử Nam phần xuất xứ từ giới bình dân, chứ không phải như nhạc cung đình (Huế - Trung phần) xuất xứ từ giới quý tộc.
Người dân miền Nam vào thời điểm đầu thế kỷ trước (thời điểm ra đời của nhạc tài tử) hầu hết là dân lao động tay chân làm ăn chất phát, ít học. Cho nên văn nói và văn viết là văn miệng, phát âm theo dân gian. Phần này là để dẫn nhập về chữ
ĐÀI. Chúng ta nhìn vào cây tre có những chỗ giao lóng (lóng thưa) có những chỗ nhặt lóng (lóng khít). Cũng có những cây tre toàn là lóng thưa, và cũng có những cây tre toàn là lóng khít (nhặt mắt). Cây tre nhặt lóng (lóng khít) hoặc phần gốc cây tre nhặt mắt người ta gọi là
TRE ĐÀI. Như vậy
ĐÀI là nhặt, là khít.
Từ đó suy ra
LIU đài là chữ LIU trên cần đàn chỗ phím khít, phím nhặt, chứ không phải chữ LIU chỗ phím thưa. Đối với đàn kìm hay đàn guitar hoặc bất cứ đàn nào cũng vậy. Khi gặp chữ
LIU đài là phải đàn chữ LIU ở chỗ phím khít, không đàn chữ LIU ở chỗ phím thưa.
Người không hiểu nhạc sử (và nhạc lý) thì đụng đâu đàn đó, miễn chữ LIU là đàn, mà cũng không hiểu ý nghĩa của chữ
LIU đài là gì thì lấy gì phân biệt.
Bản Phụng Hoàng (và một số bản oán) có mấy chỗ chữ LIU này, phải chú ý, nếu không sẽ không đúng hơi đặc thù của bài bản đó.
Trên cần đàn kìm, chữ
LIU đài nằm ở phím thứ 8 dây nhỏ.