Tôi có đọc Bài thuyết trình của Nhạc Sĩ NHỊ TẤN đêm 30-9-1993 tại TTVH quận 8 về Cấu Trúc Âm Thanh Hơi Điệu Đờn Ca Tài Tử trong đó có đoạn viết:
"Hơi Đão:
Hơi bắc lẫn lộn với hơi Xuân. Trong lòng câu có những láy đờn với điệp khúc “Xề Ú Liu Phan“, ta nghe như có sự đảo cung từ dây hò tư sang dây hò nhứt. Do đó khi chuyển hơi sang lớp Song Cước, hợp lý nhứt là phải chuyển từ dây bắc Hò tư sang dây Hò nhứt của hơi Ai điệu Nam".Bạn giúp giải thích dùm đoạn này tôi đọc nhưng không hiểu!
Thưa anh
thaydat,
Nhân đây em xin nhắc lại sơ qua về các Dây Hò của cổ nhạc.
Cổ nhạc theo ngũ âm: Hò - Xự - Xang - Xê - Cống. Vì vậy mà có 5 loại dây Hò, như sau:
- Dây Hò Nhứt: lấy cung Hò là cung thứ nhứt trong ngũ âm làm Hò. Đây là Dây Kép chính.
- Dây Hò Nhì: lấy cung Xự là cung thứ nhì trong ngũ âm làm Hò. Dây này rất nhiều người
gọi sai là Dây Xề (trong đó có Văn Giỏi). Đây là Dây Kép cao.
- Dây Hò Ba: lấy cung Xang là cung thứ ba trong ngũ âm làm Hò (dây nầy giới tài tử gọi là dây Hò Đậy vì bất cứ chữ Hò nào cũng phải bấm, không có chỗ buông. Mỹ Châu thường ca dây hò ba này).
- Dây Hò Tư: lấy cung Xê là cung thứ tư trong ngũ âm làm Hò. Đây là dây Đào, rất thông dụng hiện nay để đàn cải lương và hầu hết các loại bài bản.
- Dây Hò Năm: lấy cung Cống là cung thứ năm trong ngũ âm làm Hò. Dây này giới tài tử gọi là Dây Hò Cống.
Khởi thủy của cây đàn lục huyền cầm (guitar phím lõm) là lên dây theo Dây Rạch Giá (cách lên dây giống như đàn Mandoline) là Hò Xê Xự Cống để đàn vọng cổ cho Kép ca (tức là Dây Kép), lấy cung Hò là bậc thứ nhứt trong ngũ cung làm Hò nên gọi là Dây Hò Nhứt. Ngày xưa chỉ có một Dây Kép cung Hò Nhứt là Dây Kép chính mà thôi. Đến thập niên 1960 vì có một vài nam nghệ sĩ (như Minh Phụng chẳng hạn) ca hơi cao hơn dây kép chính một quãng đúng, ăn vào cung Xự. Từ đó nhạc sĩ Văn Vĩ phải đàn vọng cổ cung Xự tức là lấy cung Xự làm Hò. Cung Xự là bậc thứ nhì trong ngũ cung nên gọi đây là Dây Hò Nhì. Ngày nay rất nhiều người không thông nhạc lý, gọi sai dây này là Dây Xề (trong đó có Văn Giỏi).
Dây Rạch Giá lên dây giống như Mandoline nên ngày xưa người ta chỉ đàn có 4 dây mà thôi (dây số 5 và 6 không xài). Theo cách lên dây như đã nói trên là
Hò Xê Xự Cống. Như vậy dây số 4 là chữ đàn Hò, dây số 3 là chữ Xê, dây số 2 là chữ Xự, dây số 1 là chữ Cống. Khi kép ca thì bấm Hò tại nấc thứ 5 dây 3 (song thinh với dây số 4), khi dứt cây 1 thì buông dây số 1 (chữ Cống), ngày xưa các song lang (nhịp thứ 24 của bài vọng cổ nhịp 32) cũng đàn chữ Cống.
Từ đó suy ra khi đàn vọng cổ cho kép ca hơi cao thì buông dây số 2 làm Hò thì đó chính là chữ Xự của Dây Rạch Giá, cho nên gọi là Dây Hò Nhì, đâu có liên quan gì tới chữ Xề mà nhiều người gọi là Dây Xề ? (mà chữ Xề ở đây là buông dây số 3).
Mà, Dây Hò Nhì này cũng trùng y với Dây Hò Nhì của cây đàn kìm, để đàn các bản Oán tổ.
Vậy, kép ca hơi bình thường (như Thành Được, Thanh Sang...) thì gọi đó là Dây Hò Nhứt (lấy cung Hò là cung thứ nhứt trong ngũ âm làm Hò). Kép ca hơi cao (như Minh Phụng...) thì gọi đó là Dây Hò Nhì (lấy cung Xự là cung thứ nhì trong ngũ âm làm Hò).
Phải nói qua về 5 dây hò như vậy để bắt qua lớp Song Cước bản Đảo Ngũ Cung theo thắc mắc của anh
thaydat nè... hi hi hi...
Như đã nói trên,
Dây Hò Nhứt là dây để đàn vọng cổ cho kép (nam nghệ sĩ) ca. Cho nên bản Đảo Ngũ Cung khi sắp chuyển qua lớp Song Cước thì hay nhồi mấy chữ "Xế Ú Liu Phan" chuyển hơi qua mùi. Mà chữ Phan của Dây Hò Tư này khi trở hơi mùi thì lại chính là chữ Xang của Dây Hò Nhứt. Do đó Song Cước phải chuyển qua hơi mùi (hơi Ai điệu Nam) của Dây Hò Nhứt thì mới "xuôi chèo mát mái", nghe rất êm tai mùi mẫn. Không thể nào chuyển qua hơi Ai điệu Nam như Lớp Mái của bản Nam Ai được. Cho nên khi chúng ta nghe Đảo qua Song Cước thì hơi mùi nghe na ná như Lớp Mái Nam Ai, nhưng lại là Dây Kép tức là Dây Hò Nhứt.
Tóm Lại, Lớp Mái Nam Ai thì đàn Dây Hò Tư (là Dây Đào), Song Cước (Đảo) thì đàn Dây Hò Nhứt (là Dây Kép chính).
Phần giải thích của em, nếu chưa được rõ ràng thì xin anh thaydat và các ACE nêu thắc mắc tiếp.
Ghi chú thêm:
Ngày xưa khi đàn vọng cổ cho kép ca thì cây lục huyền cầm (guitar phím lõm) đàn Dây Rạch Giá (là dây hò nhứt). Cách lên dây:
Hò - Xê - Xự - Cống
Khi đàn vọng cổ cho đào ca thì lên dây lại, gọi là Dây Tứ Nguyệt. Cách lên dây:
Xề - Liu - Xê - Líu
Dây Tứ Nguyệt cũng để đàn những bản mùi.
Đó là chơi theo tài tử.
Từ khi có ca ra bộ và sau đó là cải lương thì cách lên dây như vậy rất bất tiện, vì đang nửa chừng phải đổi dây từ kép qua đào hay ngược lại sẽ bị gián đoạn ngừng tay lên dây lại.
Do đó người ta chế ra một loại dây khác cho đàn lục huyền cầm là dùng Dây Tứ Nguyệt, hạ chùng dây số 4 xuống đúng một quãng đúng, từ chữ Xề thành chữ Xàng. Dây mới này gọi là Dây Lai (là lai tạo gữa Dây Rạch Giá và Dây Tứ Nguyệt của Tài Tử thành Dây Cải Lương thống nhất). Với Dây Lai này, đàn vọng cổ cho đào kép hoặc bất cứ bài bản gì mà không cần phải vặn dây (lấy dây) lại như trước kia nữa. Dây Lai này hiện vẫn đang dùng cho tới hiện nay.
Với Dây Lai này, chắc là sẽ không có sự thay đổi nào nữa, vì nó hoàn hảo quá rồi.
Có một vài loại dây chỉ để đàn bản vọng cổ cho nghe lạ tai thôi. Ví dụ như Dây Sài Gòn, Dây Ngân Giang, Dây Đồng Tháp... gần đây có thêm Dây An Giang nghe cũng na ná như Dây Ngân Giang mà thôi. Các loại dây này không thể đàn các bài bản đúng hơi được, và cũng không để đàn suốt một vở cải lương được. Cho nên không thể nào thay thế được Dây Lai đã có từ khoảng đầu hoặc giữa thập niên 1950. Nghe nói Dây Lai do Văn Vĩ chế ra. Danh cầm lục huyền cầm trước Văn Vĩ là Văn Còn dùng Dây Rạch Giá, chính Năm Cơ đàn guitar cũng đàn Dây Rạch Giá, sau chuyển qua Dây Lai theo Văn Vĩ.
Dây Ngân Giang Kép người ta gọi là Dây Bán Ngân Giang.
Dây Ngân Giang Đào thì người ta gọi là Dây Ngân Giang.