Nguyên văn bởi thaydat
Không biết NP gọi Dì phạn hay là Dì phảnh là một có đúng không chứ trong tuồng đó ghi là Dì phạn.
Dạ thưa chú thaydat,
Như hôm trước NP đã nói
Dì Phạn hay
Dì Phảnh chỉ là một bản mà thôi. Sở dĩ có hai tên gọi là do phiên âm từ tiếng Quảng Đông mà ra. Vì bản này có xuất xứ từ các gánh Hát Quảng và các gánh Hát Tiều bên Tàu. Chữ Phạn là phiên âm theo âm Hán Việt, chữ Phảnh là phiên âm theo âm Quảng Đông.
Lúc Hát Bội không còn thịnh hành nữa, thì các soạn giả Hát Bội chuyển qua soạn tuồng Tàu và lấy một số bản nhạc của các gánh Hát Tiều, các gánh Hát Quảng để nguyên xi đưa vào các vở cải lương tuồng Tàu, như Xái Phỉ, Dì Phảnh, Xang Xừ Líu, Trạng Nguyên Hành Lộ, Nhị Thủy (Dì Khí Tiếu), Ú Liu Ú Xán v.v…
Đầu tiên các soạn giả tiền bối để nguyên xi tên bản này theo cách gọi của các gánh Hát Quảng là
Dì Phảnh (đúng như phát âm của họ). Chữ này viết chữ Hán đọc âm Việt là Phạn (âm Hán Việt), nhưng người Quảng Đông đọc là Phảnh. Chữ Dì Phạn nếu đọc đúng thì phải là chữ Nhị Phạn (như bản Nhị Thủy trên). Chữ Nhị người Quảng đọc là Dì. Ví dụ chữ Hán đếm số theo âm Hán Việt là Nhất
Nhị Tam Tứ… thì người Quảng Đông đọc là Dách
Dì Xám Xây… Chữ Phạn người Quảng Đông đọc là Phảnh. Do đó nếu là Phạn thì phải là Nhị Phạn mới đúng theo nguyên ngữ, còn đọc theo Quảng Đông thì phải đọc là
Dì Phảnh. Hơn nữa đây là bản nhạc của các gánh Hát Quảng, cho nên tên đúng phải là Dì Phảnh. Ngày xưa các tuồng cải lương tuồng Tàu đều viết là
Dì Phảnh, không có vụ ba rọi nửa Quảng (Dì) nửa Hán-Việt (Phạn). Như trên đã nói, nếu Hán-Việt hoàn toàn thì phải là Nhị Phạn, nếu Quảng Đông hoàn toàn thì phải là
Dì Phảnh.
Bởi vậy học cổ nhạc phải tìm hiểu cái gốc, tức là nhạc sử vậy.