Thưở xưa Làng Cỏ Ống có chàng Trúc Văn cau thông minh tháo vát, con ông Cau và bà Tranh, cùng lứa với cô Mai Thị Trầu, con ông Đinh, bà Bèo, một thiếu nữ duyên dáng, thạo nghiệp bút nghiêng. Trai tài gái sắc, đôi bên đem lòng cảm mến. Một lần tình cờ gặp gỡ bên dòng suối vắng, chàng trai đã mượn câu ca dao ướm thử lòng người xuân nữ: “Tiện đây anh mới hỏi nàng. Cau tươi ăn với trầu vàng xứng không?’ Người con gái vốn thông minh đã đáp lại bằng một câu ca dao hợp tình, hợp cảnh:”Mai vàng chen với trúc xanh. Duyên em sánh với tình anh tyệt vời”, Biết rõ lòng nhau, chàng Cau ngỏ lời xin cha cưới nàng làm vợ, ông Câu nghe nói rụng rời tay chân, bèn bộc lộ cho con biết, nàng Trầu chính là kết quả mối tình vụng trộm giữa ông Câu với bà Bèo thời trai trẻ. Chàng Cau bàng hoàng như sét đánh ngang tai vì trong lúc quá yêu, chàng đã trót hái “trái cấm” nơi đứa em cùng cha khác mẹ. Trúc Văn Cau ôm hận thả bè qua một thung lũng hoang vắng trên hòn đảo cách xa làng hơn 10 dặm , ẩn dật ở đấy cho đến chết. Người đời đặt tên đảo là Hòn Cau. Nơi chàng nằm xuống sau mọc lên một rừng cau xanh tốt quanh năm, mùa trái chín đỏ rực.
Nàng Trầu đau đớn, ngày ngày ra ngóng nơi vách đá khi xưa thường hò hẹn. Khi thấy thai nhi đã lớn , cũng là lúc nàng biết chuyện tình buồn của cha mẹ, và hiểu rằng chàng Cau không bao giờ về nữa. Hoàn toàn tuyệt vọng, nàng gieo mình xuống nước. Nơi nàng tự vận, nay mang tên là bãi Đầm Trầu. Cảm thương đôi bạn trẽ chết vì mối tình oan nghiệt, dân làng Cỏ Ống đã đặt câu ca: Ai về nhắn gởi ông Câu – Hòn Cau cách bãi Đầm Trầm bao xa?’ Bãi Đầm Trầu là nơi phong cảnh tuyệt đẹp. Bờ cát mịn trải dài dưới chân vách đá dựng muôn hình. Trên một triền đá vươn ra tận biển nổi lên 2 tảng đá lớn, chụm đầu vào nhau như đôi bạn đang trò chơi chuyện mải mê, quên hết thời gian, năm tháng. Đặc biệt là nước biển ở đây trong và xanh hơn bất cứ nơi nào. Sắc xanh một khoảng trời, một cánh rừng đổ bóng, hòa vào màu xanh trong của biển trời nơi ấy.
Sau chuyện tình bi đát ấy xảy ra, ông Câu thấy lương tâm bị cắn rứt phải bỏ làng Cỏ Ống lánh sang một bãi bên sau núi Chúa mà ở, sau này ông qua đời người ta gọi nơi ấy là bãi Ông Câu. Đồng thời bà Bèo cũng không sống nỗi với tiếng bấc tiếng chì trong cảnh gia đình xào xáo nên bà phải bỏ nhà vô tận trong bưng để sống độc thân, nơi ấy sau này gọi là bưng Bà Bèo. Về phần ông Đinh cũng chẳng kém gì. Quá buồn do chuyện vợ con, ông vào tu trong một hốc núi bên cạnh con đường qua nhà người anh cả là Ông Cường. Do đó sau này mới có tên là bãi ông cường và hốc ông Đinh.
Riêng bà Tranh (vợ ông câu) rất thương chồng và nhớ con song không tội gì phải bỏ đi đâu. Bà vẫn ở trong ngôi nhà cũ. Vì không có người thừa tự sau khi bà mất dân trong ấp được chia nhau thừa hưởng hoa lợi trong khu vườn cây trái của bà. Để nhớ ơn bà, dân trong ấp lấy tên bà đặt tên ấp. Từ đó, nơi đây được mệnh danh là ấp Trảng Tranh. Đến ngày nay dân làng Cỏ Ống vẫn còn truyền miệng câu thơ diễn tả nỗi niềm bi đát của mối tình ngang trái giữa chàng Cau và nàng Trầu
“Đi đâu mà chẳng thấy về
Hay là quần tía dựa kề áo nâu
Ai về nhắn với ông Câu
Hòn Cau cách bãi Đầm Trầu bao xa” (siu tầm)
Và đây là bãi Đầm Trầu