Soạn giả, NSND Viễn Châu, người được xem là "vua vọng cổ" đã qua đời vì tuổi già, sức yếu, lúc 13 giờ 15 phút ngày 1-2, hưởng thọ 92 tuổi.
Nhạc sĩ Trương Minh Châu - Con trai Soạn giả, NSND Viễn Châu, cho biết cha mình qua đời tại nhà riêng sau thời gian điều dưỡng tại nhà. NSND Kim Cương thông báo sẽ đứng ra lo tất cả thủ tục tang lễ.Linh cữu của ông hiện được quàn tại Nhà tang lễ TP HCM.
Soạn giả, NSND Viễn Châu tên thật Huỳnh Trí Bá, sinh năm 1924, là danh cầm đàn tranh và là soạn giả cải lương nổi tiếng tại Việt Nam. Ông được cho là người đã khai sinh ra thể loại tân cổ giao duyên và vọng cổ hài, có công đào tạo ra nhiều thế hệ nghệ sĩ cải lương danh tiếng một thời.
Soạn giả, NSND Viễn Châu qua đời
Sinh ra và lớn lên tại xã Đôn Châu, huyện Trà Cú, tỉnh Trà Vinh, ông xuất thân trong gia đình vọng tộc, thân phụ là Hương cả, là con thứ sáu trong gia đình, ông còn có tên là Bảy Bá theo thông lệ người miền Nam.Thuở nhỏ, ông học quốc văn ở trường làng và học Hán văn với những bậc túc nho ở tại nhà. Ngoài ra, khi còn học ở trường, ông đã mê đàn ca, cả tân lẫn cổ, thường có mặt trong các buổi đờn ca tài tử, hoặc cùng bạn bè tổ chức đờn ca. Ông mày mò những ngón đàn học lóm qua đĩa hát nhựa cũng như các nhóm đàn ca tài tử ở làng quê. Đến năm 19 tuổi, ông đàn thạo các loại đàn tranh, violon, guitar và được nhiều người khen ngợi.Năm 1942, ông tham gia Ban cổ nhạc Ðài Phát thanh Pháp Á Sài Gòn. Tuy nhiên, dấu ấn đầu tiên trong sự nghiệp văn hóa nghệ thuật của Soạn giả, NSND Viễn Châu là truyện ngắn đầu tay "Chàng trẻ tuổi" được đăng trên báo Dân Mới và bài thơ "Thời mộng" được đăng trên báo Tổng xã mới trong năm đó.
Ông để lại sự tiếc thương cho người thân, đồng nghiệp, học trò, người hâm mộ
Cuối năm 1943, ông theo đoàn Tố Như lưu diễn. Hai tháng sau, ông tham gia gánh ca kịch của Năm Châu ra Hà Nội lưu diễn. Trên bước đường nghệ thuật của mình, ông có cơ hội tiếp xúc với các nghệ sĩ tài danh bấy giờ như Năm Châu, Lê Hoài Nở, Trần Hữu Trang, Duy Lâm... và học hỏi được nhiều kỹ năng về tư duy sáng tác.Kịch bản đầu tay của ông là "Nát cánh hoa rừng", sau đó có hơn 70 kịch bản nổi tiếng được lưu hành từ sàn diễn cho đến thị trường băng dĩa, trong đó có các tác phẩm để đời như: "Một ngày làm vua", "Vụ án Huỳnh Thổ Cang", "Huyện chuột nuôi đề", "Chung Vô Diệm"," Hoa Mộc Lan"...
Gia tài ông để lại cho đời là hơn 2000 bài vọng cổ.
Trong giới cổ nhạc cải lương, có rất nhiều nghệ sĩ ca không đúng nguyên văn lời ca mà soạn giả đã viết.
Cũng nên thông cảm và nhìn nhận một thực tế rằng đa số nghệ sĩ cải lương không đủ trình độ học thức trên trung bình nên không thông thạo văn chương chữ nghĩa, lại không thuộc bài như cháo, nên khi ca, nhớ không chính xác, vô tình sửa văn của soạn giả, đôi khi thành tối nghĩa, thậm chí vô nghĩa. Chứ soạn giả viết là có suy nghĩ cân nhắc từng chữ từng câu sao cho ngữ nghĩa chính xác, trong sáng.
Bên tân nhạc ít có tình trạng này hơn, nhưng bây giờ vẫn nghe tân nhạc cũng bị ca sai lời đối với nguyên tác.
choy ah.Bàng Phi là ở bên Tung Của.
còn Bằng Phi là vợ Tự Đức.Việt Lam chánh tông đó a.
2 bà này ko bik mặt nhao mà cũng ở xa nhao lắm,ko có liên quan j het!
THƠ (thay nói lối)
Ta biết tìm đâu, biết gởi đâu?
Lời thơ thiên cổ biệt ly sầu
Nàng về chốn ấy xa thăm thẳm
Ta ở nơi nầy hận bể dâu
VỌNG CỔ
1. Bằng Phi! Bằng Phi ơi trăng vỡ mây tan hoa tàn nguyệt khuyết, nàng ra đi biền biệt mấy phương trời…
Một phút từ ly là vĩnh biệt muôn đời. Nơi cung lạnh từ đây vắng bóng nhớ nhung nàng thống thiết lệ đầy vơi. Một mối tình nặng lắm nàng ơi. Từ đây biết tìm đâu cho thấy một nụ cười. Ta lặng nhìn tan tác lá thu rơi, mà ngỡ hồn ai đang lạc loài trước gió.
2. Thôi từ đây hết nợ hết duyên, hết ân hết ái một mình ta hiu quạnh chốn cung hoàng…
Hương lửa ba sinh như bếp lạnh tro tàn. Trả son phấn giả từ bệ khuyết một kiếp xuân thì trắng nợ hồng nhan. Mấy dòng thơ viết bằng chữ ly tan, duyên vàng đá cùng nàng sao ngắn ngủi. Ôi đập cổ kính ra tìm lấy bóng, xếp tàn y lại để dành hơi.
THƠ (thay nói lối)
Bằng Phi ơi, Bằng Phi ơi!
Nửa bản tình ca lỡ nhịp rồi
Giấc bướm chia tay người mỗi nẻo
Đêm trường thánh thót giọt châu rơi.
VỌNG CỔ
4. Hương khói âm u giữa đêm trường nơi cung lạnh, nhớ người xưa qua những áng thơ sầu…
Mấy mảnh hoa tìm khóc hận mối duyên đầu. Lời ly biệt qua bút se ngọn thỏ thơ viết đôi dòng ta biết gởi về đâu.
Xạc xào trận gió rung cây
Một con chim nhỏ lạc bầy kêu sương
Ngàn năm hận cũ còn vương
Thì ngàn năm vẫn nhớ thương một người
5. Tiếng trống sang canh từ lầu tây vọng lại nghe vang vang báo hiệu nửa đêm rồi…
Cầm bút đưa lên sao khó viết nên lời. Nương vách quế bốn bề quạnh quẽ, ý thơ buồn qua ngấn lệ sầu rơi. Tiếng vạc về lẻ bạn chơi vơi như những tiếng khóc than từ vạn cổ. Dung nhan ấy làm sao trông thấy nữa, ta ngồi đây nức nở gọi tên nàng.
6. Bằng Phi ơi hương hồn nàng ở tận nơi đâu khi thân xác đã vùi sâu ba tấc đất. Ta sống đây với nỗi sầu chất ngất giữa đêm trường trằn trọc giấc chiêm bao. Rượu hoàng hoa khi đã nhạt hơi men ta thêm chua xót nỗi niềm ly cách, Đêm từng đêm hững hờ ôm gói chiếc lệ rưng rưng thương tiếc bạn tâm đầu.
Rút ruột tằm hạ bút tả nên thơ, lời vĩnh biệt qua lệ mờ thấm áo.
Trăm năm lỗi tiếng tương phùng
Phím rã tơ chùng lỡ khúc tuyệt tình ca.
Trong bài ca Vọng Cổ "Khóc Bằng Phi" trên, nhìn những chữ tô đậm, chúng ta nhận thấy soạn giả Viễn Châu viết theo lối biền văn rất nhiều. Như vậy khi ca lên nghe rất du dương trầm bổng, êm tai, suông sẻ và rất mùi mẫn.
Các soạn giả khác đâu có viết được như vậy.
Các anh chị có thể kiểm chứng điều này khi nghe những bài ca Vọng cổ.
Trong các chữ vần trên, có chữ vần theo chính vận, có chữ vần theo thông vận.
choy ah. Bàng Phi là ở bên Tung Của.
còn Bằng Phi là vợ Tự Đức.Việt Lam chánh tông đó a.
2 bà này ko bik mặt nhao mà cũng ở xa nhao lắm,ko có liên quan j het!
Bàng Phi là Bàng Quý Phi, con gái của Thái sư Bàng Hồng, vợ của vua Tống Nhân Tôn bên Tàu (Thanh Hương ca Tâm Sự Bàng Phi). Bằng Phi là bà Nguyễn Thị Bằng, vợ của vua Tự Đức ở Việt Nam (Thanh Sơn ca Tự Đức Khóc Bằng Phi).
Hai người này khác nhau hoàn toàn.