Koala viết bài cảm nhận này cho những người chưa từng nghe trọn vở "Áo cưới trước cổng chùa" đó nghen
Cảm nhận về vở cải lương "Áo cưới trước cổng chùa"
Tôi cũng không nhớ mình đã nghe tuồng “Áo cưới trước cổng chùa” lần đầu tiên vào lúc nào, có thể từ những ngày cả nhà quây quần bên chiếc ti vi đen trắng có hai cái cửa gỗ trông ngộ ngộ của bà nội, hay từ khi mẹ ẵm ngửa chạy sang nhà bà Tám ở bên kia đường Chánh Hưng coi ké ti vi, chỉ biết là mỗi khi nghe lại vở tuồng có tuổi đời già hơn tôi trên hai mươi năm này, tôi đều cảm thấy trong lòng dâng lên nhiều xúc cảm khó tả.
“Áo cưới trước cổng chùa”, bản thân tiêu đề đã dậy lên một nỗi buồn day dứt, vấn vương, cũng giống như sợi dây tình tục không thể cắt đứt trước cửa thiền. Tuyệt tác sân khấu này đã được sọan giả, nhà thơ Kiên Giang – Hà Huy Hà viết theo một câu chuyện có thật về cuộc đời của bà Dì Tự (người vợ thứ tên Tự), thứ phi của tổng trấn đất Hà Tiên, Mạc Thiên Tích, hay còn gọi là Mạc Lịnh Công, nhưng được tô vẽ thêm nhiều họa tiết đắt giá, làm cho bức tranh tòan cảnh trở nên sống động, lung linh.
Trong bức tranh tuyệt mỹ đó, ta bắt gặp tình mẫu tử thiêng liêng của người mẹ Xuân mẫu đui mù và cô con gái Xuân Tự hiếu thảo, tình yêu đôi lứa từ thuở thanh mai trúc mã của Xuân Tự và Tô Châu, cùng chia uống tô nước mưa để giao thề đính ước, cùng “mỗi đêm mỗi thắp đèn trời, cầu cho cha mẹ sống đời với con”. Ở đó, ta còn bắt gặp tình bạn bè, xóng giềng thân thuộc, đùm bọc lẫn nhau trong cảnh nghèo khó mà luôn chan hòa hạnh phúc. Ở đó, còn có đứa trẻ mồ côi Phương Thành được cả làng nuôi dưỡng, thân thiết với Xuân Tự như hai chị em ruột thịt, giống nhau từ vóc dáng đến tánh tình, cùng ưa màu nước biển xanh của quê hương xóm chài, cùng ước có hai người chồng giống nhau, cùng mong mỏi khóac lên người chiếc áo cưới màu xanh, màu nước biển quê hương.
Với vốn sống phong phú của mình, sọan giả đã lồng ghép vào bức tranh sinh động ấy những chất liệu văn hóa đặc trưng của xứ biển Hà Tiên, dẫn dắt người thưởng ngọan qua từng phân cảnh mà mỗi đọan đều lưu lại một dấu ấn khó phai.
Hai cảnh đầu là hình ảnh vui tươi, sống động của người dân xóm chài, với những hình ảnh rất dễ thương thường gặp, từ việc phơi lưới, trả xuồng bị trôi, hát hội đình chùa, đến những tập tục tâm linh như uống nước mưa giao thề, thắp đèn trời cầu nguyện, lên chùa xin bùa cầu duyên. Ẩn hiện trong đó là những điềm báo trước cho một số phận nghiệt ngã như việc hai chị em cùng cầu có người chồng giống như nhau, hay chi tiết trái đước rơi làm vỡ tung gương nước.
Điểm dừng lại lúc Mạc Thiên Tứ yêu cầu hai cô gái đứng yên cho ông họa bức tranh là một dấu chấm hết cho quãng thời gian tươi đẹp ngắn ngủi của cô gái xóm chài, tổng trấn đâu biết rằng nét họa của ông là một vệt đen bao trùm lên bức tranh hòan hảo trước mắt mình, đưa nó từ gam màu tươi sáng chuyển sang tối dần đi và đi đến hòan tòan mù mịt, như cuộc đời người con gái “bị bắt lên chiếc võng hoa, bỏ dở phiên chợ chiều, bỏ lại người chồng hứa hôn đau khổ” để bước vào cổng dinh đường, nơi có “nam tham sắc, nữ tham tàn”, có mưu mô quỷ kế đưa nàng từ một cô gái hiền ngoan đẹp nhất xóm Đông Hồ thành một phế nhân bại liệt với căn bệnh tuyệt tự, bị nhốt vào chiếc lu đựng nước mưa để chờ chết.
Phân cảnh lúc Mạc Thiên Tứ tìm ra Xuân Tự nhờ dòng chữ “Nhất Phiến Băng Tâm tại Ngọc Hồ” là một đọan rất hay, với những màn đối đáp qua lại giữa một người tưởng như nửa mê nửa tỉnh sau khi bị hại cho tàn phế từ thể xác đến tinh thần, và một người tưởng như đang giữ vai trò giải thóat và bảo vệ người mình yêu, giữa sự vùng lên của những giá trị đạo lý thanh cao đang bị vùi dập và những toan tính tầm thường của con người. Cuối cùng, may thay, đạo nghĩa cao đẹp đã chiến thắng, để tâm trọn hiếu, cho lòng trọn trinh, cô gái Đông Hồ với tâm hồn thanh khiết đã được đưa về cửa phật, mong tìm sự giải thóat cho những tháng ngày còn lại của cuộc đời.
Phân cảnh mà tôi thích nhất, chính là cảnh chùa Phù Dung, nơi Tô Châu tìm đến gặp người vợ hứa hôn với hy vọng thuyết phục nàng hòan tục để cùng anh nối lại mối tình, một mối tình trinh nguyên, mà không, tôi có cảm giác đó là một mối tình thiêng liêng, được minh chứng bởi non nước Hà Tiên, một mối tình mà không gì có thể làm cho phai nhạt. Nơi đây, Tô Châu đã gặp lại người đã mang khổ lụy đến cho cả gia đình anh, mà khi gặp anh vẫn phải kính cẩn cúi chào. Một nỗi đau phải dằn nén của người con trai xóm biển, đã phải mang trong bụng, dấu trong lòng, không dám cho người mẹ đui mù bệnh tật của vợ mình biết, nay phải kiềm cho nó không phát tiết khi đối diện kẻ gây nên oan nghiệt, từng câu, từng chữ, như nghiến chặt vào lòng người nghe. Một lần nữa, người dân đen đã dạy cho ngài tổng trấn một bài học về đạo làm người, để ngài biết đâu là con đường giải thóat.
Từ đầu câu chuyện đến trước lúc này, tổng trấn vẫn chỉ lấy cái nhìn kẻ cả của người trên để xử thế, ông thích ai thì ông “trân trọng” đưa về, ông nâng niu, chiều chuộng mà không quan tâm đến người đối diện, ngay cả khi biết được người ta đã có chồng hứa hôn, biết được ở quê nhà vẫn còn người mẹ già mù lòa, nhưng tất cả những gì ông làm cũng chỉ là xây chậu để trồng lại đóa hoa, mặc dù biết chỉ để đi nhặt hoa tàn, tổng trấn không mảy may quan tâm đến tâm sự của hoa, đến những người thân có liên quan, cũng là những nạn nhân gián tiếp trong tai họa mà ông đã gây ra. Đối với tôi, Mạc tổng trấn là một người hòan tòan thất bại.
Hình ảnh cô sư nữ tình trần chưa dứt, nhẩm đến ngày rằm, ngày đám cưới, lần gậy mang áo cưới ra phơi trước cội Phù Dung, là một hình ảnh khăc họa rất đậm nét trong tâm trí của tôi. Nối tiếp bằng hình ảnh người chồng hứa hôn bỏ về trong tiếng chuông chùa, cùng những lời ca da diết, của kẻ phải làm đám cưới với người mình chưa bén duyên, như là một cách giữ cho người mẹ của người mình yêu được kéo dài cuộc sống, tác giả đã khéo léo an bày một kết cuộc đầy chất nhân văn đặc trưng của người Việt Nam.
Đọan cuối của vở tuồng, có lẽ tôi không cần phải dẫn giải nhiều, vì nó đã trở nên quá nổi tiếng. Sự đòan tụ gia đình, một đám cưới trước giả sau thật, tình người bao bọc lẫn nhau, che dấu để rồi vỡ òa trong niềm đau, nhưng cũng là nỗi thấu hiểu không cần thêm bất cứ một lời giải thích nào. Nên chăng là nói về sự diễn đạt quá tuyệt vời của tòan bộ diễn viên, từ một Phương Thành mộc mạc, chất phác của Tô Kim Hồng, từ một bác Hải Lâm của Diệp Lang hài hước mà đầy tình cảm, đến một Xuân mẫu không ai thay thế được của Thanh Nguyệt bên Xuân Tự Lệ Thủy và Tô Châu Lương Tuấn. Tôi không thể nào quyên được giây phút Thanh Nguyệt thốt lên “Nó đây nè, con nhỏ này nè…” và câu Xế Xảng “Nhất Phiến băng Tâm”, mẹ tôi thì lúc nào mắt cũng đỏ hoe, còn tôi thì cứ nghe cay cay ở sống mũi.
Tôi không có dịp may được xem nghệ sĩ Thanh Nga hóa thân thành nàng Xuân Tự, mà theo nhận xét của một số nhà phê bình, là một sự hóa thân tuyệt vời, tôi chỉ được xem và nghe Lệ Thủy sống cùng nàng Xuân Tự, mà theo tôi, là một thành công khó ai có thể sánh được. Giọng hát Lệ Thủy luôn có sức hút đặc biệt với tôi, và ở vai Xuân Tự, cô xử lý luyến láy theo một cách rất đặc trưng, tôi hầu như không quên bất kỳ câu hát nào của cô, từ lúc tung tẩy ở làng chài bên Tô Châu, đến lúc cô kết câu vọng cổ “để mẹ tin con đã vu quy, cho dù Xuân Tự quy y lâu rồi”.
Thật khó để dừng lời cảm nhận về một vở tuồng tâm đắc, một khi nó đã in sâu trong trái tim mình. Tôi chỉ xin một lần nữa nghiêng mình trước một tuyệt tác, từ một câu chuyện cảm động, đến ngòi bút điêu luyện của sọan giả và sự kết hợp xuất thần của dàn diễn viên, để giờ đây, trong lúc viết bài cảm nhận này, tôi vẫn tranh thủ tận hưởng từng giây từng phút…