TƯ GIA THAYDAT! TẬP HỢP BÀI ĐÀN, AUDIO, VIDEO...
hướng dẫn, trao đổi, chia sẻ của NGUYENPHUC với THAYDAT, UTHOTVINHHANH và anh em đam mê đàn hát cổ nhạc.
Hôm rồi có đứa em nó đi làm công trên Bình Dương về quê ăn tết. Nó có đờn (guitar) cho mình nghe bài Tứ Đại Oán lớp 1. Nó nói học trên Bình Dương. Mình mới giới thiệu NP với nó. Nó bảo để hôm nay tranh thủ đờn bài ấy rồi gởi cho NP nghe góp ý dùm. Không biết ý của NP thế nào?
Chú nghe người đó đờn như thế nào, ăn với bản của chú không?
Và đờn dây hò mấy?
"Góp ý" thì đâu có gì trở ngại. Quan trọng phải đều nhịp, rồi mới nói tới chuyện ngón đờn và tiết tấu. Lòng bản thì chắc đúng rồi, vì có bài ca trong tuồng Lan và Điệp làm mẫu. Tuy nhiên bản Tứ Đại (6 câu đầu) cũng có chỗ tranh cãi ở câu 2 và 3 chỗ nhịp thứ 7 (mà cũng không quan trọng lắm).
Chúc ông thầy NP và gia đình ông cũng như các bạn và gia đình diễn đàn cải lương số một năm mới dồi dào sức khỏe, hạnh phúc, bình an, phát tài, phát lộc.
NP giúp nói cụ thể hơn "chỗ tranh cãi ở câu 2 và 3 chỗ nhịp thứ 7" của bản Tứ Đại Oán 6 câu đầu. Cảm ơn.
Chỗ nầy, nhiều người nhiều nhóm "giao lưu" với nhau thường hay tranh cãi, ai cũng cho rằng mình đúng, người khác sai, đi đến chỗ mất vui, mất hòa khí.
Đó là chữ đờn tại nhịp thứ 7 của câu 2 và câu 3 (2 câu nầy trùng nhau) của Lớp Đầu bàn Tứ Đại.
Theo căn bản từ xưa thì chỗ nầy chữ XỀ. Các tuồng hát và ca tài tử xưa các thầy đờn đều đờn XỀ. Ngay cả trong tuồng Lan và Điệp của soạn giả Loan Thảo cũng đờn XỀ, Văn Giỏi đờn guitar cho tuồng nầy dĩ nhiên cũng đờn XỀ. Nhưng người ca thường luyến hơi XỪ (đưa hơi) chỗ nầy. Sau 1975 Năm Vinh đờn chỗ nầy chữ HÒ (trầm), rồi Ba Tu cũng bắt chước theo Năm Vinh đờn HÒ, và mọi người bắt chước theo Ba Tu ùn ùn đờn HÒ (Văn Giỏi cũng theo Ba Tu đờn HÒ). Tuy nhiên trong các chương trình hội thi trên đài truyền hình TP.HCM, nhiều ban nhạc vẫn đờn XỀ theo căn bản xưa.
Từ đó có thể nói: đờn XỀ là đúng 100% lòng bản căn bản xưa (tổ truyền), đờn HÒ là theo Năm Vinh, Ba Tu và các fans, đờn XỪ là đờn mò theo người ca luyến hơi.
Tranh cãi là có 3 cách đờn theo phân tích trên.
Tóm lại, đờn XỀ là đúng nhất, đờn HÒ là theo thời thế, đờn XỪ là đờn mò vuốt đuôi lươn.
Nhiều người không có học căn bản, cứ nghe ai danh cầm, ai ưu tú, ai nghệ sĩ nghệ nhân nhân dân đờn sao là bắt chước theo, bất luận là bài bản gì.
Cũng giống như bây giờ có nhiều người bắt chước giọng nói đớt của những người "chốn ngàn năm văn vật" vậy mà (thí dụ TR nói thành CH, R nói thành D... đó là không kể tôi đi NÀM ở Hố LAI, Sở BIU Điện). LẦM thì nói là NHẦM, vậy lầm lạc, lầm lỡ, sai lầm họ có nói nhầm nhạc, nhầm nhỡ, sai nhầm không? Nhưng họ (last name) LÂM thì họ nói là NHÂM, NP có người bạn tên Lâm Vĩnh Thông thì họ (xứ ngàn ngăm văn vật) nói là Nhâm Vĩnh Thông. Nhiều người nói sai nên ai cũng nghĩ nhiều người (nói) chắc phải đúng. Cũng vậy, nhiều người đờn sai nên ai cũng nghĩ nhiều người (đờn) vậy là đúng. Lâu ngày cái sai trở thành cái đúng và ngược lại.
Sau năm 1975, nhiều tuồng cải lương đã bị người ta sửa nát hết thì tình trạng bản đờn cũng không ngoại lệ. Tuồng cải lương có nhiều phiên bản thì bản đờn (nhất là các bản lớn) cũng có nhiều phiên bản, tất nhiên có những dị biệt do nhiều nguyên nhân, chủ quan cũng có và khách quan cũng có.
Bởi vậy mới có câu: Cổ nhạc cầu kỳ bản (cổ nhạc tìm cái gốc).
NP ơi nói về thể điệu Tương Tư Dạ Khúc đi và viết cho xin kí âm bài này. Xin cảm ơn.
Bản (Tương Tư Dạ Khúc) này không phải là bản nhạc cổ truyền, mà là được sáng tác sau này (sau cả hai bản Phi Vân Điệp Khúc và Đoản Khúc Lam Giang).
Nguyên thủy có tên là Dạ Khúc, viết cho đàn guitar phím lõm. Về sau người ta nghe Đỗ Quyên ca bản Trường Tương Tư có tựa đề là Tương Tư Dạ Khúc nên người ta gán cho bản Dạ Khúc này cái tên là Tương Tư Dạ Khúc luôn. Tuy nhiên nhiều nơi vẫn gọi theo tên nguyên thủy là Dạ Khúc. Gọi sao cũng được, miễn (đàn và ca) đúng bản là được rồi.
Bản đàn: DẠ KHÚC (TƯƠNG TƯ DẠ KHÚC)
1. (-) (LIU),
2. Ú liu (PHAN), ú liu (PHAN)
3. Liu phan (XỀ) xế (XANG)
4. Xế hò xang (XÊ) "xê líu cống xê (XANG)
5. Xế hò xang (XÊ) xê cống xê xang (XÊ)"
6. Xư (HÒ) xừ xan (XẾ)
7. Xề (XẾ) xan xư (HÒ)
8. Hò (XỰ) xan (XÊ)
9. Líu phán (CÔNG) xê xan xư (HÒ)
10. "Liu phan xề phan (LIU)", (LIU),
11. Ú liu (PHAN), ú liu (PHAN)
12. Liu phan (XỀ) xế (XANG)
13. Xế hò xang (XÊ) "xê líu cống xê (XANG)
14. Xế hò xang (XÊ) xê cống xê xàng (XÊ)"
15. Líu phan (LÍU) phan líu (PHAN)
16. Líu xự xang (XỰ), (LIU)
17. Phan (LÍU) xự xang (XỰ)
18. (HÒ) xàng xề (LIU)
19. Liu (XỀ) liu xàng xừ (LIU)
20. Liu (-) liu xề (-)
21. Xề xán (U) liu phan (-)
22. Liu (XỀ) xừ (LIU)
23. Liu phan (XỀ) liu xàng xừ (LIU).
Ghi chú: Nguyên thủy bản DẠ KHÚC được viết cho đàn guitar (phím lõm). Khi chuyển qua đàn kìm phải sửa một vài chỗ cho thuận tay và thuận phím trên cần đàn, như sau:
19. Liu (XỀ) liu xàng xề (LIU)
20. Liu (-) liu xề (-)
21. Xề xề xán (U) liu phạn (-)
22. Liu (XÀNG) xề (LIU)
23. La liu phan (XỀ) liu xàng xề (LIU).