Quyển sách đàn ca cổ nhạc tựa là Cầm Ca Tân Điệu của tác giả Trần Phong Sắc người tỉnh Tân An viết vào thời nền ca nhạc tài tử còn phôi thai, gồm đủ loại bài bản (vào thời đó), cũng như quyển sách đàn ca cổ nhạc tựa là Ca Nhạc Cổ Điển Bạc Liêu của tác giả Trịnh Thiên Tư viết sau này thì 4 bản oán tổ trong đàn ca tài tử có tên thống nhất là Tứ Đại, Phụng Hoàng, Giang Nam, Phụng Cầu.
Nhưng khoảng mấy chục năm gần đây lại xuất hiện thêm tên Phụng Hoàng Lai Nghi hay Phụng Hoàng Cầu và Phụng Cầu Hoàng Duyên để thay thế cho tên Phụng Hoàng và Phụng Cầu.
Khi ngành sân khấu cải lương phát triển, một vài soạn giả tiền phong muốn đưa thêm bản Phụng Hoàng (tài tử) vào cải lương (ngoài bản Tứ Đại đã vào cải lương trước đó), để thêm phần phong phú. Nhưng bản Phụng Hoàng có mấy dị bản, không biết soạn lời ca theo bản nào, ngay cả các thầy đàn cũng không thống nhất lòng bản với nhau. Vì vậy một soạn giả tiền phong soạn ra vở tuồng Máu Thấm Tần Hoàng Đảo (vào khoảng cuối thập niên 40 đầu thập niên 50 của thế kỷ trước) đã lấy bản Phụng Hoàng tài tử sửa lại một số chỗ dị biệt và sửa những câu dứt 7 nhịp thành 8 nhịp cho đào kép dễ ca. Soạn giả này chỉ lấy 12 câu đầu của bản Phụng Hoàng tài tử mà thôi.
Tuồng Máu Thấm Tần Hoàng Đảo xuất hiện bản Phụng Hoàng 12 câu (đàn theo cải lương) gây sự chú ý cho giới thưởng ngoạn.
Mãi đến giữa thập niên 60 của thế kỷ trước, soạn giả Hà Triều Hoa Phượng "vực dậy" bản Phụng Hoàng 12 câu nói trên đưa vào vở tuồng Nửa Đời Hương Phấn, đã lấy nước mắt của không biết bao nhiêu lượt khán thính giả. Từ đó các soạn giả khác "phát huy" và Phụng Hoàng cải lương 12 câu đã đứng vững và tồn tại song song với Phụng Hoàng tài tử mà cũng là con đẻ của Phụng Hoàng tài tử.
Nếu so sánh đối chiếu thì Phụng Hoàng cải lương và Phụng Hoàng tài tử (12 câu đầu) có cấu trúc lòng bản giống nhau, cải lương chỉ sửa lại những phần như đã nói trên đúng theo nghĩa "cải" là sửa "lương" là tốt", tức là sửa lại cho tốt hơn về nhịp nhàng, thang âm lòng bản.
Thoạt kỳ thuỷ, bản Phụng Hoàng cải lương vô LIU như Phụng Hoàng tài tử, nhưng khi đào ca thì thường hay vô XÊ để không bị chìm hơi. Giống như bản vọng cổ có một thời thường vô XÊ (thay vì vô LÌU như hiện nay).
Từ nay nhạc giới dùng tên Phụng Hoàng Lai Nghi hay Phụng Hoàng Cầu để chỉ bản Phụng Hoàng tài tử đã có từ khi thầy, tổ lưu truyền.
Bản Phụng Hoàng Lai Nghi (và các bản oán tổ), giới tài tử thường đàn kìm với dây Tố Lan vì dây này nghe mùi mẫn, ai oán, thảm não...
Dây Tố Lan ăn với dây Hò Nhì, cho nên khi hoà tấu, các nhạc cụ khác cũng phải đàn ở cung/bậc Hò nhì.
Cách lên dây Tố Lan đàn kìm (để đàn bản oán) như sau:
Dây lớn (tức là dây tồn):
Buông dây là chữ HÒ
Phím 1 là chữ XỪ
Phím 2 là chữ XÀNG
Phím 3 là chữ XỀ
Phím 4 là chữ CỒNG
Phím 5 là chữ LIU
Phím 6 là chữ U
Phím 7 là chữ XÁN
Phím 8 là chữ XẾ
Dây nhỏ (tức là dây tàn):
Buông dây là chữ PHAN (OAN)
Phím 1 là chữ LIU
Phím 2 là chữ XỰ (già)
Phím 3 là chữ XÁN
Phím 4 là chữ XẾ
Phím 5 là chữ PHAN (OAN) <-- âm vực cao
Phím 6 là chữ LÍU (LIU đài)
Phím 7 là chữ XỨ (già) <-- âm vực cao
Phím 8 là chữ XÁN <-- âm vực cao
Chơi tài tử mà không biết dây Tố Lan thì thật là một sự thiếu sót quan trọng, vì dây này dùng để đàn các bản oán, vừa hay vừa đúng điệu "dân chơi".
Mình cũng chưa rõ cách kí âm (Xan xừ xang) NP có thể nói rõ hơn (Xan xừ xang) 2 chữ đàn xan và xang này cùng một vị trí ở trên cần đàn hay 2 vị trí khác nhau? Xin cảm ơn
Chữ xang (có g) là do NP viết nhiều quá thành ra nhầm đó thôi, vì không có cây đàn cứ tưởng tượng thầm đôi khi bị nhầm. Nếu có cây đàn thì nhìn vào phím đàn làm sao nhầm được. Tóm lại đó là chữ xan (không có g):
Tồn liu xứ liu cống xê xư xề xế xan xừ (XAN). Chứ làm sao 2 chữ xan và xang khác âm vực mà cùng một thang âm được.
Tóm lại, khi đờn thì tính theo âm vực, trừ những nhạc cụ "nghèo" âm vực như độc huyền và cò.
Người ta nói bản oán mỗi lái đàn thường có 2 thang âm như vậy láy đàn Tồn liu xứ liu cống xê xư xề xế xan xừ (XAN) thì Tồn liu xứ liu cống xê là thang âm ở âm vực thấp xư xề xế xan xừ (XAN) là thang âm ở âm vực cao đúng không?
Người ta nói bản oán mỗi lái đàn thường có 2 thang âm như vậy láy đàn Tồn liu xứ liu cống xê xư xề xế xan xừ (XAN) thì Tồn liu xứ liu cống xê là thang âm ở âm vực thấp xư xề xế xan xừ (XAN) là thang âm ở âm vực cao đúng không?
Hai thang âm đó là nói một cách tổng quát.
Riêng ở đây, trong phạm vi láy đờn này thì chỉ có một thang âm. Nếu tồn líu xứ liu cống xê ở thang âm thấp thì chữ xang ở âm vực thấp, nếu tồn liu xứ liu cống xê ở thang âm cao thì chữ xan ở âm vực cao.
Mà thôi, chú cứ đờn theo như trong audio là "đạt yêu cầu".
NP vào google gõ Cấu Trúc Âm Thanh Hơi Điệu Đờn Ca Tài Tử.( Bài thuyết trình của Nhạc Sĩ NHỊ TẤN đêm 30-9-1993 tại TTVH quận 8 )
Trong bài viết này có đoạn nói về hơi oán: "khác với Điệu Nam ở Hơi Ai , Điệu Oán có cấu trúc các láy đờn thường đi từ 2 ngũ cung . Thí dụ muốn xuống Xề , xuống Xàng , xuống Xư , ta phải
chạy chữ đờn từ chữ Liu , Cống , Xế của ngũ cung cao về Xề , Xàng , Xư của ngũ cung trầm và ngược lại" .
NP vào google gõ Cấu Trúc Âm Thanh Hơi Điệu Đờn Ca Tài Tử.( Bài thuyết trình của Nhạc Sĩ NHỊ TẤN đêm 30-9-1993 tại TTVH quận 8 )
Trong bài viết này có đoạn nói về hơi oán: "khác với Điệu Nam ở Hơi Ai , Điệu Oán có cấu trúc các láy đờn thường đi từ 2 ngũ cung . Thí dụ muốn xuống Xề , xuống Xàng , xuống Xư , ta phải
chạy chữ đờn từ chữ Liu , Cống , Xế của ngũ cung cao về Xề , Xàng , Xư của ngũ cung trầm và ngược lại" .
Đâu cần gì phải nghe ông Nhị Tấn nói. Ai học đờn có căn bản cũng đều biết mà, vì đó là qui luật bắt buộc. Có như vậy thì đờn nghe mới mùi. Đã gọi là thang âm thì phải có bậc từ thấp lên cao từ cao xuống thấp, cứ nhin cái thang leo thì biết. Thí dụ muốn về XỀ thì phải đờn xế xang xư XỀ, muốn về XÊ thì phải đờn hò xự xang XÊ chẳng hạn. Ngày nay nhiều người không có cân bản, đờn tưới hột sen, nghe không ra gì cả. Đó là cái tai hại của việc học mò học lóm không có thầy dạy cặn kẽ.
Bản Giang Nam rất nhiều người đờn sai chữ XỆ, như Văn Môn, Minh Nhựt v.v... (nhiều người sai chỗ này). Đờn như ông Ba Tu mới đúng.