NSUT Phượng Loan là một trong những cô đào thương có giọng ca chân phương, nhưng hơi giọng không kém phần ngọt ngào và truyền cảm. Cô là một trong những nghệ sĩ Cải lương thành danh vào cuối thế kỷ trước., nhưng có nhiều vai diễn và giọng ca truyền cảm được khán - thính giả biết đến qua một số vai diễn và bài Vọng cổ trên nhiều đài phát thanh và truyền hình trong cả nước.
NSUT Phượng Loan tên thật là Đặng Thị Phượng Loan, sinh tại quận 3 – Sài Gòn ( 1966 ). Cô học ca với nhạc sĩ Hoàng Nô năm 10 tuổi, 13 tuổi cô đã đi hát Cải lương. Đó là thời điểm những năm đầu sau Giải phóng, Phượng Loan đầu quân vào đoàn Cải Lương Xuân Mới ( 1979–1981 ). Lúc đó, đoàn này diễn viên toàn là các bé gái tuổi từ 11 đến 13 đang độ mới lớn, nên chủ trương của Trưởng đoàn là không nhận các bé trai vào đoàn, vì sợ ảnh hưởng đến tâm sinh lý của các em. Đến khi thiếu kép để đóng vai Trần Quốc Toản trong vở “ Trần Quốc Toản ra quân”, nên Phượng Loan được giao giả làm kép để thủ vai này tạm thời, sau đó cô sẽ trở lại hát đào thương.
Nhưng khi ra mắt vở “ Trần Quốc Toản ra quân”, Phượng Loan đóng không những tròn vai, mà ca diễn chững chạc, dáng vóc điệu bộ rất oai phong của con nhà võ, nên từ đó, ông Bầu và tập thể giao cho Phượng Loan những vai kép tiêu biểu thời đó như: Vương Tá trong “ Cánh tay Vương Tá “, Trần Nguyên Hãn trong “ Rừng thần “, Thi Sách trong “ Tiếng trống Mê Linh “, Trần Bình Trọng trong vở diễn cùng tên... Hơn hai năm thử nghề, mẹ của Phượng Loan không cho cô đi hát nữa, vì thấy cô vất vả: tập tuồng, đi diễn đây đó chủ yếu là hát phục vụ, mà tiền bạc thì chẳng được bao nhiêu. Sau đó Phượng Loan về phụ bán cà phê với gia đình
Nhưng có lẽ, Phượng Loan đã có duyên và vương mang nghiệp Tổ nên cô phải trở lại với Sân khấu Cải lương chuyên nghiệp. Lần này, Phượng Loan vào Đoàn Cải lương Tinh Hoa của bầu Cơ và cô hát đào ba, rồi đào nhì, dần dần được nâng lên đào chánh và hát đúp vai Nghệ sĩ Kim Thoa, đóng chánh với NS Ngân Giang và Chiêu Hùng ( 1983 – 1986 ). Nhưng trên Sân khấu này, Phượng Loan không tạo dấu ấn gì đáng kể với khán giả lúc đó. Thế rồi, cô phải trãi qua các đoàn như: đoàn CL Tháp Mười A, Cao Nguyên, Cam Ranh, Trung Hiếu ( 1988 ), cũng những vai đào nhì không mấy ấn tượng...
Mãi đến khi cô về Đoàn Cải Lương Long An, Phượng Loan mới bắt đầu tạo được tên tuổi từ những vai đào thương chánh. Đây là lúc nghề cô khá vững ca diễn, vì đã từng trãi qua nhiều đoàn hát, và những vai nhì, ba đã đúc kết được kinh nghiệm cho cô. Tại Sân khấu Long An, Phượng Loan chỉ để lại ba vai diễn tiêu biểu: Lụa trong “ Lời nói dối cuối cùng “, Trang trong “ Trà Hoa Nữ “ va Phương Tâm trong “ Hãy yêu nhau thật lòng “, vai này cô đoạt Huy chương vàng tại Hội diễn SKCLTQ – 1990. Năm sau, Phượng Loan về đoàn Cải lương Sông Hậu I ( 1991 ), rồi Tây Đô – Cần Thơ ( 1993 – 1995 ) hát chánh với NSUT Trọng Hữu.
Hơn hai năm trên SK Tây Đô, Phượng Loan có nhiều vai diễn để lại cảm tình với khán giả miền Tây, nhưng vai đáng kể nhất là Dạ Hương trong “ Loài hoa không tên “, là vở diễn thời đó ăn khách khá lâu, và vai này Phượng Loan đoạt Huy chương vàng Hội diễn SKCLTQ – 1995, đồng thời cô đoạt luôn giải Diễn viên tài sắc Hội diễn SKCNTQ – 1995 do Hội Sân Khấu Việt Nam trao tặng.
Những năm sau đó ( 1996 – 1998 ), NSUT Phượng Loan về hát chính cho Đoàn Văn Công TPHCM, tong đó có hai vai được khán giả biết đến nhiều nhất là Thủy trong “ Ai giết tình em “ và vai Khanh “ Không là cát bụi “. Bởi thời kỳ này Cải lương không chỉ ở TP.HCM mà cục diện chung cả nước gặp khó khăn, nếu không muốn nói là Cải lương đã rơi vào khủng hoảng. Sau đó, NSUT Phượng Loan được Đoàn CL Tây Đô – Cần Thơ mời trở lại hát đào chánh với NSUT Minh Vương ( 1999 – 2002 ).
Sự trở lại lần này của Phượng Loan đã để lại cho khán già Tây Đô thêm một dấu ấn với ba vai nổi bật : Mi La trong “ Công chú Ba Tư “, Hương trong “ Đứa con không tên “, Thơm trong “ Huyền thoại một tình yêu”; với vai Thơm, Phượng Loan đoạt Huy chương vàng Hội diễn SKCNTQ – 2000. Sau đó, Phượng Loan rời Tây Đô về cộng tác cho Nhà hát Trần Hữu Trang hai năm ( 2002 – 2004 ), nhưng lúc này, Nhà hát chỉ dựng lại những vở cũ nên cô không có vai nào tạo ấn tượng tiêu biểu.
Từ sau năm 2004, Phượng Loan cộng tác cho CLB CL Thể Nghiệm của Hội SKTP và Đài HTV rất nhiều vở và chương trình Cải lương như Vầng Trăng cổ nhạc, chuyên đề Vọng cổ... có thể thấy giai đoạn này Phượng Loan có vai Bà giáo trong “ Nước mắt thâm tình ( CLB CL Hội SKTP ) và Phượng Loan trong vai Đặng Huệ Phi trong “ Đêm Hội Long Trì “ – vờ này đoạt Huy chương vàng tại Liên hoan SK truyền hình toàn quốc năm 2004. Tiếp đó, năm 2008 trong vai Sương Nguyệt Anh, Phượng Loan cùng ê kíp thực hiện vờ Cải lương “ Sương Nguyệt Anh “ của tác giả Linh Huyền cũng đoạt Huy chương vàng tại Liên hoan SK truyền hình toàn quốc. Sau đó, cô được Nhà nước phong danh hiệu NSUT – 2007.
NSUT Phượng Loan lớn lên trong nghề bằng chính mình, cô học hỏi gián tiếp từ những nghệ sĩ đi trước, của đạo diễn, của bạn diễn...những tinh hoa ấy rất hiện hữu để hình thành cho Phượng Loan một phong cách ca diễn riêng. Một cô đào thương đa năng cả hai thể loại sân khấu màu sắc và tâm lý xã hội. Có thể thấy những vai màu sắc hương hoặc dã sử như A Mi La và Đặng Huệ Phi...của Phượng Loan là các nhận vật có tầm cỡ , thuộc hàng hoàng tộc quý phái , sang trọng và tính cách không kém phần phúc tạp, nhưng Phượng Loan vào vai diễn một cách bản lĩnh.
Nếu A Mi La kiều diễm mang nổi niềm trắc ẩn, Phượng Loan có lối diễn đằm thắm để đi vào chiều sâu tâm trạng nhân vật thì với Huệ Phi, Phượng Loan lại càng bản lĩnh hơn, từ phát âm gằn giọng, đôi mắt sắc bén với những cái nhìn như xoáy tim người và ca như nói để thể hiện tính cách tính cách sắc sảo của một bà thứ phi... Ở những vai tâm lý xã hội thì khá nhiều vai cho Phượng Loan lột tả nhân vật một cách thấu đáo và tinh tế hơn. Phương Tâm, Dạ Hương, Hương và Thơm là những dấu ấn in đậm về tính cách nhân văn vai diễn của NSUT Phượng Loan, nghĩa là cô đem tình cảm của mình vào để biểu đạt qua nhận vật với những câu chuyện tình yêu và số phận.
Dường như mỗi nhân vật của Phượng Loan thủ diễn tâm lý và tính cách đa chiều, có những nỗi nghiệt ngã khác nhau: một Phương Tâm khát khoa một tình yêu chân chính của thời hiện đại, bất chấp mọi tiền tài, mưu mô, cám dỗ...vượt bao gian khổ để tìm đến một tình yêu đích thực; một ca sĩ Dạ Hương trong bối cảnh giao thời để đối thoại từ tình yêu trong cuộc chiến hôm qua và hiện tại; rồi Hương trong một cuộc đời và số phận đầy những long đong; một cô nữ giao liên Cách mạng Thơm thủy chung chờ chàng trai bộ đội đã cùng thề hẹn ngày đất nước hòa bình..
Với những nỗi niềm, tâm trạng và cả sự vượt lên số phận của các nhân vật được NSUT Phượng Loan tái hiện bằng tài ca diễn của mình, để khắc họa lại những tính cách đó của nhận vật một cách tinh tế. Cô có lối diễn trầm tĩnh, không ồn ào hay “ bốc “ lên, mà là những chiều sâu đem đầy cảm xúc với người xem. Phượng Loan cũng ít dùng đến ngoại hình hay phong thái đi đứng với hành động bên ngoài để miêu tả nhân vật, mà cô biểu diễn cảm xúc nội tâm là chính. Có lẽ thế mạnh của Phượng Loan là cách biểu đạt đôi mắt, lúc trữ tình, giận dữ, sầu thảm, suy tư…cô diễn tả ánh mắt thay lời. Ngay cả khi cô ca thì ánh mắt kết hợp tâm trạng ca mà bộc lộ nội tâm nhân vật, khiến người xem như thấy nhân vật kịch đang sống sống trước mắt mình.
Thiên phú cho Phượng Loan có làn hơi chất giọng mùi, vốn âm giọng chất chứa bi nhiều hơn là hùng, nên ngữ điệu ca nói hay ca ngâm của Phượng Loan mùi mẫn, buồn dào dạt và cản xúc hơn là trữ tình thanh thoát. Nếu nói về ngữ âm thì Phượng Loan có hơi giọng “ Thổ pha Kim “ ( khác với một vài tác già viết bài nhận định theo chủ quan võ đoán, thiếu cơ sở khoa học về ngữ âm ). Vì chúng tôi căn cứ vào cơ sở âm học, tức nghiên cứu chất liệu âm giọng của con người. Hơi – Giọng của Phượng Loan thừa hưởng hai âm giọng của NSUT Út Bạch Lan và NSUT Ngọc Hương, cái mùi của cô Út và cái thanh trong cấn lên của cô Hương.
Nhưng âm giọng Phượng Loan thường ở mức “ Thổ “ đầy hơn nên âm sắc buồn và mùi hơn, cô lại có kỹ thuật ngân giọng riêng ( Kỹ thuật thanh đới ), không quan tâm một thanh điệu nào để nhấn và luyến, mà cô chỉ nhấn trọng âm bất cứ dấu nào ( dù huyền hay sắc, hỏi ) ở những ca từ mang ý nghĩa cảm xúc hoặc biểu đạt tính hùng, bi, tự sự trong câu ca mà thôi. Khi cần thiết những ca từ cất giọng cấn lên, hoặc nhấn để luyến, tạo sắc thái lạc quan, trữ tình thì Phượng Loan mới ca phong cách này. Nói chung, giọng ca của NSUT Phượng Loan lúc nào cũng mang một tâm sự, trong trạng thái của kịch ngân nga biểu đạt lúc nào cũng dồi dào âm sắc buồn buồn; hay nói cách khác, kiểu ca như thế là tính ca kịch, tức trong ca có kịch, trong kịch được thể hiện qua giọng ca. Có lẽ, đặc điểm đó trong các bài Vọng cổ mà Phượng Loan biểu diễn đã được các nhà đài chú ý và mời cô cộng tác.
Cô có khá nhiều bài ở một số đài PT&TH, nhưng có lẽ khán thính giả yêu thích nhất những bài như: Bông súng đồng quê, Bông bồn bồn rụng trắng, Giot sữa cuối cùng, Cánh đồng nắng của soạn giả Trọng Nguyễn, Người Mẹ bên dòng Xà No của tác giả Ngọc Thảo, Chiều Sông lô của soạn giả Ngô Hồng Khang,…
Từ năm 2004, NSUT Phượng Loan rời Nhà hát Trần Hữu Trang , rồi hoạt động độc lập cho đến nay. Ngoài sự cộng tác cho các Đài và hãng dĩa, hát show ở nhiều tỉnh, Phượng Loan còn tham gia nhiều công tác từ thiện xã hội như những chuyến cứu trợ ở các tỉnh do Chùa Nghệ sĩ, Ban ái hữu nghệ sĩ tổ chức, góp tiền vào quỹ vì người nghèo hiếu học do Báo Sân khấu tổ chức. Với tài nghệ và uy tín của một nghệ sĩ, gần đây, NSUT Phượng Loan đã được một số cuộc thi về giọng ca Cải lương mời làm giám khảo như cuộc thi Chuông vàng vọng cổ của HTV, cuộc thi tuyển chọn giọng ca Cải lương hàng tuần của Đài TNND TPHCM...
Điều đáng quý ở NSUT Phượng Loan là nhiệt tình với nghề, sống bình dị, hài hòa với đồng nghiệp và có lòng tự thiện xã hội; chắc chắn cô sẽ để lại dấu ấn trong lòng khán giả không chỉ bằng tài năng nghệ thuật mà còn là một nghệ sĩ Cải lương đầy tình nhân ái.